Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 171/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH T

BẢN ÁN 171/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2022/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2022 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXX-ST ngày 31 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị H, sinh năm 1991. Nơi ĐKHKTT: Xóm 10, xã B, huyện T, T. Có mặt Nơi ở hiện nay: Thôn Trung THnh, xã Ngọc Trung, huyện N, tỉnh T.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT: Xóm 10, xã B, huyện T, T Hiện đang chấp hành án tại trại giam số 5 Bộ Công An; có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, và bản tự khai nguyên đơn chị Trương Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn H tự nguyện tìm hiểu nhau tiến đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện T, tỉnh T vào ngày 25/4/2014.

Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, đến đầu năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, đến năm 2019 anh H vi phạm pháp luật và đang phải chấp hành án tại trại giam số 5 Bộ Công An. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H nộp đơn đến Tòa án nhân dân huyện T yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn đối với anh Phạm Văn H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Thị Kim Ngân, sinh ngày 26/02/2015, chị H có nguyện vọng được nuôi con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản làm việc ngày 08/4/2022 giữa Tòa án và bị đơn, anh Phạm Văn H trình bày:

Anh và chị H tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện T ngày 25/4/2014, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được mấy năm thì nảy sinh mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân được 3 năm. Năm 2019 anh vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án phạt tù, nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh H công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Thị Kim Ng, sinh ngày 26/02/2015, anh muốn được nuôi con chung nhưng hiện nay vì điều kiện đang phải chấp hành án phạt tù nên anh sẽ giao con lại cho Bố mẹ anh trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung.

Về tài sản và công nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 15/4/2022, cháu Phạm Thị Kim Ng có nguyện vọng được ở với Bố.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 71; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Về hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị H được ly hôn với anh Phạm Văn H. Về con chung: Giao cháu Phạm Thị Kim Ng, sinh ngày 26/02/2015 cho chị Trương Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh Phạm Văn H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ: Không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Trương Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền, tố tụng: Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn chị Trương Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, người trực tiếp nuôi con; Bị đơn anh Phạm Văn H, có địa chỉ cư trú tại Xóm 10 xã B, huyện T, tỉnh T. Đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định đây vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T.

[2]. Về hôn nhân: Chị Trương Thị H và anh Phạm Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện T, tỉnh T vào ngày 25/4/2014, như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án chị H thấy tình cảm vợ chồng không còn, do vợ chồng tính tình không hợp, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016, anh H hiện đang phải chấp hành án phạt tù. Như vậy mâu thuẫn quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó chị H yêu cầu ly hôn với anh H là có cơ sở và cần được chấp nhận.

[3]. Về con chung: Chị Trương Thị H và anh Phạm Văn H đều xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Thị Kim Ng, sinh ngày 26/02/2015.

Xét yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử thấy rằng, quá trình giải quyết vụ án anh H có quan điểm, ý kiến về việc giành quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, nhưng hiện nay anh đang chấp hành án tại trại giam nên anh sẽ không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Ng được. Chị H cũng có nguyện vọng được nuôi con chung. Vì vậy, xét điều kiện, hoàn cảnh và căn cứ Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình, giao cháu Phạm Thị Kim Ngân cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của chị H, do đó Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

[4]. Về tài sản và công nợ: Hai bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Trương Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 4 điều 147; khoản 1 Điều 227; các Điều 266, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 71, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân : Xử cho chị Trương Thị H được ly hôn anh Phạm Văn H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Thị Kim Ng, sinh ngày 26/02/2015. Giao cháu Phạm Thị Kim Ng cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Trương Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000d theo biên lai thu số AA/2021/0014165 ngày 25/02/2022 của Chi cục thi Hnh án dân sự huyện T, tỉnh T. Chị H đã nộp đủ.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 171/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:171/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về