TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 155/2023/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 123/2023/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 10 năm 2023 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 49/2023/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ph, sinh năm: 1997 Trú tại: Thôn Q, xã L, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 29/11/2023).
- Bị đơn: Anh Trương Thanh L, sinh năm: 1990 Trú tại: Thôn Q, xã L, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị Ph trình bày: Chị và anh L tự do tìm hiểu, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán địa phương và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 26/3/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc nhưng thời gian sau thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã bất hòa, không có tiếng nói chung. Nay chị xét thấy tình cảm không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 (hai) con chung là Trương Tố U, sinh ngày 14/4/2016 và Trương Hoàng V, sinh ngày 21/9/2019. Khi ly hôn chị Ph có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu U cho đến tuổi thành niên. Giao cháu V cho anh L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo thụ lý và triệu tập hợp lệ anh L đến tòa án để làm bản tự khai nhưng anh L vắng mặt nên không có lời khai của anh L trong hồ sơ vụ án. Chị Ph đề nghị không tiến hành hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS). Tòa án cũng đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho các bên đương sự nhưng anh L không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh L. Anh L cũng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, chị Ph đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 của BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Ph và anh L.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Ph được ly hôn anh L. Về con chung: Giao cháu Trương Tố U, sinh ngày 14/4/2016 cho chị Ph được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên, giao cháu Trương Hoàng V, sinh ngày 21/9/2019 cho anh L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho ai. Về tài sản: Chị Ph không yêu cầu giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Chị Ph phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ph và anh Trương Thanh L đến với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 26/3/2015 và không vi phạm Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Quá trình chung sống nảy sinh nhiều bất đồng, không hòa hợp được. Cả hai vợ chồng đều đi làm ăn xa nhau, tình cảm có sự gián đoạn đổ vỡ, thiếu thông cảm với nhau. Việc này đã được anh trai của anh L là Trương Thanh Tùng và chính quyền địa phương xác nhận, phù hợp với nội dung xác minh tình trạng hôn nhân của Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình xử cho chị Nguyễn Thị Ph được ly hôn với anh Trương Thanh L để giải phóng cho người phụ nữ là cần thiết và phù hợp pháp luật.
[2] Về con chung: Chị Ph và anh L có 02 (hai) con chung là Trương Tố U, sinh ngày 14/4/2016 và Trương Hoàng V, sinh ngày 21/9/2019. Hiện chị Phương đang trực tiếp nuôi cháu U, trong đơn trình bày nguyện vọng, cháu U có nguyện vọng được ở với mẹ. Ly hôn chị có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng cháu U cho đến tuổi thành niên. Đối với cháu V hiện đang sống cùng anh L và ông bà nội nên chị Phương có nguyện vọng giao cháu V cho anh Lâm được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên. Để đảm bảo điều kiện phát triển ổn định bình thường cho con trẻ, tránh sự sáo trộn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị Ph, giao cháu U cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, giao cháu V cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, giới tính và các quy định của pháp luật.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Ph không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
luật.
[4] Về án phí: Chị Ph phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 207, điểm a, b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.
Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Ph được ly hôn anh Trương Thanh L.
Về con chung: Giao cháu Trương Tố U, sinh ngày 14/4/2016 cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Giao cháu Trương Hoàng V, sinh ngày 21/9/2019 cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.
Chị Nguyễn Thị Ph và anh Trương Thanh L có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ph phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bá Thước theo biên lai số: AA/2022/0002089 ngày 20/10/2023. Chị Ph đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Ph và anh L. Chị Ph và anh L có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 155/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 155/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về