Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 15/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 02 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 174/2023/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2023 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 383/2023/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số: 13/2024/QĐST-DS ngày 16 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Thái Thị P.

Địa chỉ: Ấp X, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Trương Văn C.

Địa chỉ: Ấp X, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

(Các đương sự đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện ngày 27 tháng 7 năm 2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Thái Thị P trình bày:

Vào năm 2004, bà Thái Thị P và ông Trương Văn C có tổ chức lễ cưới, tự nguyện sống chung như vợ chồng, đến ngày 20-7-2006 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Đông và được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, do ông C thường xuyên ăn nhậu, khi say thì bạo hành, không lo cho vợ con. Tuy ông, bà còn ở chung nhà tại ấp X, xã N, huyện M, nhưng không còn gắn bó đời sống vợ chồng nhiều năm nay, nên bà P yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông C.

Bà P với ông C có hai người con chung là Trương Thị Thúy D, sinh ngày 14-5-2005, đã trưởng thành và cháu Trương Văn Thái M, sinh ngày 09-01-2011 đang sống chung với bà P. Trong đơn khởi kiện, bà yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi con trưởng thành. Nhưng trong biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 01-12-2023 của Toà án đối với bà P và trong Đơn xin vắng mặt ngày 16-01-2024, thì bà P đều có ý kiến là bà không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con, hiện nay bà có việc làm và có thu nhập.

Về tài sản chung: Ông, bà tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Đối với bị đơn: Ông Trương Văn C đã được Tòa án tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia tố tụng, nhưng ông C đều vắng mặt không lý do, cũng không nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ và văn bản ghi ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của bà P.

3. Ý kiến của con chung:

Trong biên bản ngày 09-11-2023, Tòa án ghi ý kiến của cháu Trương Văn Thái M, thì cháu có nguyện vọng sống chung với mẹ là bà Thái Thị P.

4. Ý kiến của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về nội dung thì cho rằng có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn và con chung; đương sự không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật; về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn, do bị đơn có nơi cư trú tại ấp X, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, nên Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng giải quyết là đúng thẩm quyền, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn là bà P có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; bị đơn ông Trương Văn C đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ hai lần, nhưng đều vắng mặt không có lý do và không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt của các đương sự không gây khó khăn, ảnh hưởng đến việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân xã Ngọc Đông, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp số 82, quyển số I, thì bà P với ông C đã đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền này vào ngày 20-7-2006. Theo văn bản số 06/VHTT-GĐ ngày 10-01-2024 của Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng có nội dung như sau: Hộ ông Trương Văn C và bà Thái Thị P trong thời gian chung sống với nhau không có xảy ra tình trạng bạo lực gia đình; đồng thời, bà P cũng không cung cấp được chứng cứ chứng M ông C có hành vi bạo lực gia đình; nay bà P yêu cầu ly hôn với ông C, Tòa án đã thông báo và triệu tập các đương sự tham gia hòa giải, nhưng ông C đều vắng mặt, bà P vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà P với ông C không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung:

Bà P với ông C có hai con chung tên Trương Thị Thúy D, sinh ngày 14-5- 2005, đã trưởng thành và có khả năng lao động, nên không yêu cầu Toà án giải quyết và cháu Trương Văn Thái M, sinh ngày 09-01-2011 đang sống chung với bà P. Nay bà P yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu M.

Xét thấy, ông C không có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà P; nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bà P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu M sau này, đồng thời cũng nhằm ổn định cuộc sống cho cháu, nên cần giao cháu M cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu M tròn 18 tuổi.

Về quyền, nghĩa vụ của ông C đối với con chung: Ông C không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với bà P; ông C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định của khoản 2 Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và ông C không có ý kiến gì về vấn đề này. Do đó, ông C không phải cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung: Bà P cho rằng bà và ông C tự thoả thuận; các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Bà P trình bày không có nợ chung; các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Bà P là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự trong vụ án ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 1 và 2 Điều 81, khoản 1 và 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Thái Thị P được ly hôn với bị đơn ông Trương Văn C.

2. Về con chung:

Giao cháu Trương Văn Thái M, sinh ngày 09 tháng 01 năm 2011 cho bà Thái Thị P trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu M tròn 18 (mười tám) tuổi.

Ông Trương Văn C có nghĩa vụ tôn trọng quyền của cháu Trương Văn Thái M được sống chung với bà Thái Thị P.

Ông Trương Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Ông Trương Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Thái Thị P phải chịu 300.000 đồng (bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010354 ngày 13 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; như vậy, bà P đã nộp xong án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về