TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 14/2023/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 07 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 63/2023/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/7/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2023/QĐST-HNGĐ ngày 16/8/2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lưu Thị Thu T, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Thôn H, xã Dang K, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn: Anh Hồ Viết Đ, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Thôn H, xã Dang K, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk. (nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/3/2023 cũng như trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Lưu Thị Thu T, trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Hồ Viết Đ chung sống tự nguyện với nhau từ năm 2017 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã Dang K, huyện Krông B, tỉnh Đăk Lăk. Quá trình chung sống với nhau được 4 năm thì phát sinh mâu thuẫn là do kinh tế khó khăn. Nguyên nhân là chúng tôi bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, sau đó tôi thường xuyên đi làm ăn xa nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay. Nay tôi xét thấy không còn khả năng đoàn tụ, nên tôi làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Hồ Viết Đ.
Tại bản tự khai và quá trình tố tụng, bị đơn anh Hồ Viết Đ, trình bày:
Về hôn nhân: Tôi và cô Lưu Thị Thu T chung sống tự nguyện với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Dang K. Quá trình chung sống với nhau xảy ra mâu thuẫn do chúng tôi không có tiếng nói chung, cô T thường xuyên đi làm xa nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay. Nay vợ tôi làm đơn ly hôn, tôi xét thấy không còn khả năng đoàn tụ nên tôi đồng ý ly hôn.
Về con chung: Chị T và anh Đ thống nhất khai có 02 người con chung: tên là: Hồ Lưu Thảo P, sinh ngày 06/01/2018 và Hồ Nguyễn Nhật Đ, sinh ngày 26/11/2020.
Khi ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồ Lưu Thảo P. Giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ. Anh Đ có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 người con chung.
Về cấp dưỡng: Chị T và anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị T, anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành. Tại biên bản xác minh ngày 25/7/2023 tại chính quyền địa phương thôn H, xã Dang K về mâu thuẫn gia đình của chị T và anh Đ, đại diện ban tự quản thôn H cho biết: Sau khi kết hôn, anh Hồ Viết Đ và chị Lưu Thị Thu T sinh sống cùng gia đình anh Đ là gia đình ông Hồ Viết Đ1, sau đó hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị T bỏ về mà mẹ ruột ở thôn H, xã Dang K. Sau đó chị T đi làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh, chính quyền được biết là chị T với anh Đ đã không còn chung sống với nhau khá lâu, anh Đ vẫn ở với cha mẹ và làm nghề lái xe khách, sau khi anh Đ và chị T không còn ở với nhau thì hai người con ở với anh Đ, khi anh Đ đi làm thì để con cho mẹ anh Đ là bà H chăm sóc hàng ngày. Thời gian gần đây thì chị T đã đưa cháu gái là Hồ Lưu Thảo P cùng đi thành phố Hồ Chí Minh, còn cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ do anh Đ trực tiếp nuôi, khi anh Đ đi làm thì do bà H chăm sóc hàng ngày.
Tại phiên tòa hôm nay, chị T xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Về hôn nhân: chị T đề nghị Tòa án công nhận thuận tình ly hôn giữa chị với anh Đ như tại phiên hòa giải; về con chung: theo đơn, chị T cho rằng anh Đ muốn cả 2 người con được ở chung với nhau nên muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cả 2 người con hoặc giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cả 2 người con, chị T thấy bản thân chỉ đủ khả năng về kinh tế nuôi được một người con nên chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Hồ Lưu Thảo P, giao cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ cho anh Đông trực tiếp nuôi dưỡng. Các vấn đề khác chị T không yêu cầu.
Bị đơn anh Hồ Viết Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có ý kiến thay đổi thỏa thuận tại phiên hòa giải.
Về án phí: Chị T phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và xác nhận của đương sự trước phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền: Vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa chị Lưu Thị Thu T với anh Hồ Viết Đ, do bị đơn có nơi cư trú tại huyện Krông B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, do đó Tòa án nhân dân huyện Krông Bông thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa hôm nay, anh Hồ Viết Đ vắng mặt lần thứ hai không có lý do, quyết định hoãn phiên tòa đã được tống đạt, tòa án vẫn tiến hành phiên tòa xét xử vụ án là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
- Về hôn nhân: Chị Lưu Thị Thu T với anh Hồ Viết Đ chung sống với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Dang K, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 18, ngày 08 tháng 5 năm 2017. Trong quá trình chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2021 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn là do kinh tế khó khăn, bất đồng quan điểm và không có tiếng nói chung trong việc lựa chọn việc làm, chị T thường xuyên đi làm ăn xa nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay, xét thấy vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ. Anh Đ cũng thừa nhận là cuộc sống chung xảy ra nhiều mâu thuẫn như chị T trình bày và đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh Đ xét thấy vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên đồng ý ly hôn.
Tại phiên tòa hôm nay chị T xin xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Ý kiến các đương sự tại buổi hòa giải là thuận tình ly hôn, đến nay các đương sự không ai thay đổi ý kiến. Xét thấy tại phiên hòa giải các bên đương sự hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận, nội dung không trái pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX cần chấp nhận. Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lưu Thị Thu T và anh Hồ Viết Đ.
- Về con chung: Chị T với anh Đ có hai người con chung là Hồ Lưu Thảo P, sinh ngày 06/01/2018 và Hồ Nguyễn Nhật Đ, sinh ngày 26/11/2020. Tại phiên hòa giải, anh Đ có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai người con chung, chị T chỉ muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồ Lưu Thảo P và giao cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Các đương sự không thỏa thuận được.
Qua lời trình bày của các đương sự cho thấy, điều kiện thu nhập kinh tế, tư cách đạo đức cả chị T và anh Đ đều có đủ điều kiện tối thiểu để chăm lo, nuôi dạy con chung. Y kiến của anh Đ là muốn cả 2 con được ở với nhau nên muốn trực tiếp nuôi dưỡng cả hai người con chung, hoặc giao cả 2 người con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T cho rằng chỉ đủ khả năng kinh tế nuôi được một cháu, do cháu P là con gái nên có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu P, giao cháu Đ cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, các đương sự không thỏa thuận được, theo ý kiến của anh Đ đưa ra là không phù hợp nên không được HĐXX chấp nhận.
Xét nguyện vọng của chị T là muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P và giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ, theo biên bản xác minh mâu thuẫn gia đình, hiện nay anh Đ đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và cháu P đã được chị T đưa đi thành phố Hồ Chí Minh nuôi dưỡng. Mặc dù cháu Đ chưa đủ 36 tháng tuổi nhưng từ khi anh Đ và chị T không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay, cháu Đ do anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, tại phiên hòa giải anh Đ cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả cháu Đ và cháu P, như vậy theo nguyện vọng của chị T là giao cháu Đ cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, chị T muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P là chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm được quyền lợi và trách nhiệm đối với con chung của cả anh Đ và chị T nên HĐXX cần chấp nhận. Giao cháu Hồ Lưu Thảo P cho chị Lưu Thị Thu T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Hồ Lưu Thảo P đủ tròn 18 tuổi.
Giao cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ cho anh Hồ Viết Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ đủ tròn 18 tuổi.
- Về cấp dưỡng: Chị T và anh Đ không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra để giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự thống nhất không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Chị T phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48; Điều 144, Điều 147; Điều 220; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 241; 266; 267; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lưu Thị Thu T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn anh Hồ Viết Đ
[1] Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lưu Thị Thu T và anh Hồ Viết Đ. Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Đ chấm dứt. Giấy chứng nhận kết hôn số 18, ngày 08/5/2017 do Ủy ban nhân dân xã Dang K, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk cấp cho chị T và anh Đ hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.
[2] Về con chung: Giao cháu Hồ Lưu Thảo P - sinh ngày 06/01/2018 cho chị Lưu Thị Thu T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Hồ Lưu Thảo P đủ tròn 18 tuổi. Giao cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ - sinh ngày 26/11/2020 cho anh Hồ Viết Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Hồ Nguyễn Nhật Đ đủ tròn 18 tuổi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với các con chung không trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật như: có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này.
Để đảm bảo quyền lợi chung của con chưa đủ tuổi thành niên, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
[3] Về án phí: Chị Lưu Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ mà chị Thảo đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0013398 ngày 29/3/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Bông. Chị T đã nộp đủ.
Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 14/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Bông - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về