Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 3 năm 2022, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 355/2021/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐ-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lưu Thị P, sinh năm 1996 ĐKHKTT: Thôn N, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Địa chỉ hiện nay: Thôn TA, xã T, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

* Bị đơn: Anh Trần Hữu Đ, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn N, xã Tiên LụTc, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

(Chị P có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lưu Thị P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Hữu Đ được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Tiên Lục vào ngày 19/9/2016. Anh chị được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương.

Sau khi kết hôn, chị về nhà anh Đ làm dâu và chung sống cùng gia đình anh Đ tại thôn Ngoài, xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Khoảng cuối năm 2019, vợ chồng chị nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm về cách sống và làm ăn kinh tế nên thường xuyên cãi cọ nhau. Gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng. Từ tháng 8 năm 2020, chị và anh Đ ly thân. Chị và con đã về nhà ngoại ở Thôn Thuận An, xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Giang sinh sống cho đến nay. Từ khi chị về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh Đ về thăm con được 3 lần. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Hữu Đ.

- Về con chung: Quá trình chung sống, giữa chị và anh Đ 01 con chung là Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con chung là Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Cháu Dương hiện nay đang ở cùng chị tại nhà ông bà ngoại (bố mẹ đẻ của chị) ở Thôn Thuận An, xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Hiện cháu có sức khỏe tốt, phát triển bình thường. Bản thân chị hiện nay đang đi làm công ty Luxshare, thu nhập bình quân từ 8.000.000đồng - 9.000.000 đồng/tháng. Thời gian chị đi làm từ 7h đến 17h hàng ngày, khi chị đi làm thì bố mẹ đẻ hỗ trợ chăm sóc con giúp chị.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Trần Hữu Đ trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng, thông báo thụ lý, triệu tập đến làm việc, thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa, quyết định hoãn phiên tòa song anh Đ không đến Tòa án làm việc, không có quan điểm gì về việc giải quyết vụ án. Anh Đ tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa.

* Tại Biên bản xác minh ngày 15/12/2021 của Tòa án với chính quyền địa phương thì đại diện chính quyền địa phương cho biết: Chị P, anh Đ là công dân sinh sống tại địa phương, anh chị có đăng ký kết hôn hợp pháp. Quá trình chung sống, địa phương không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng chị P, anh Đ. Anh chị đi làm công ty, cuối tuần mới về với gia đình. Từ năm 2020, địa phương chỉ biết chị P đưa con về nhà ngoại sinh sống, không về nhà anh Đ chung sống nữa. Giữa chị P và anh Đ có 01 người con chung là cháu Trần Hữu Đ Dương sinh năm 2017. Anh Đ hiện vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng anh Đ đi làm công ty thi thoảng vẫn về nhà. Việc chị P khởi kiện xin ly hôn anh Đ và giải quyết về con chung ra Tòa án, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tòa án làm việc với ông Trần Hữu Thuốc là bố đẻ của anh Trần Hữu Đ, ông Thuốc cho biết như sau: Anh Đ và chị P làm chung công ty, được tự do tìm hiểu và tự nguyện đến với nhau, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Tiên Lục và được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Quá trình anh Đ và chị P sinh sống cùng nhau có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do từ hồi tháng 8 năm 2020, chị P thường đi làm về khuya, anh Đ có hỏi thì chị P cho rằng phải làm tăng ca nhưng anh Đ nghi ngờ chị P có quan hệ với người khác. Có hôm anh Đ đi đón chị P thì thấy có người khác giới đưa chị P về nên anh chị cãi nhau. Sau đó anh Đ đưa chị P về bên nhà bố mẹ đẻ ở Bắc Ninh sinh sống. Gia đình hai bên đã hòa giải nhưng chị P không về nhà chồng sinh sống nữa, anh chị ly thân từ tháng 8 năm 2020 đến nay. Giữa anh Đ và chị P có 01 con chung là Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017. Hiện nay cháu Dương đang sinh sống cùng chị P ở bên nhà bố mẹ đẻ chị P, do covid nên gia đình ông xuống thăm cháu được 03 lần. Nay chị P làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh Đ thì gia đình đồng ý đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn cho anh chị vì mâu thuẫn anh chị không thể hàn gắn được. Tuy nhiên, khi giải quyết ly hôn thì anh Đ và gia đình ông có nguyện vọng được nuôi cháu Trần Hữu Đ Dương và không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Đ đi làm công ty, do tình hình dịch bệnh covid nên ít về nhà, gia đình đã thông báo các văn bản của Tòa án gửi về nhà cho anh Đ được biết, tuy nhiên do dịch covid nên anh Đ không đến Tòa án làm việc. Gia đình không biết mức thu nhập của anh Đ cụ thể là bao nhiêu nhưng hàng tháng anh Đ đều gửi về cho gia đình số tiền 8.000.000 đồng để chi tiêu và cất giữ hộ.

* Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần 2 không có lý do. Hội đồng xét xử công bố các lời khai, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của thư ký đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ. Đối với bị đơn đã vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, HĐXX căn cứ Điều 227, 238 của Bộ luật tố tụng xét xử vụ án là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án, kiểm sát viên đã phân tích đánh giá thực trạng mâu thuẫn của chị P và anh Đ đã trầm trọng, kéo dài, đến nay vợ chồng không thể chung sống đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, Điều 56 luật hôn nhân và gia đình xử cho chị P và anh Đ ly hôn. Về con chung, đề nghị giao cháu Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017 cho chị P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Đ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Dương theo mức 1.000.000 đồng/01 tháng kể từ tháng 3 năm 2022 cho đến khi cháu Dương đủ 18 tuổi. Về phân chia tài sản chung, chị P không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về án phí: Chị P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Ngoài ra kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét về quyền kháng cáo của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của chị P thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn và tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt,bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 , Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị P và anh Đ kết hôn năm 2016 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu; đăng ký kết hôn tại UBND xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, qua xác minh với gia đình anh Đ thì thấy cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị P xác định do bất đồng quan điểm về cách sống và làm ăn kinh tế nên thường xuyên cãi cọ nhau, gia đình anh Đ cho biết nguyên nhân là do anh Đ nghi ngờ chị P có quan hệ với người khác nên xảy ra cãi nhau. Từ tháng 8 năm 2020, anh Đ đưa chị P về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, bản thân chị P xác định không còn tình cảm vợ chồng, bản thân anh Đ không đến Tòa án làm việc. Mặc dù không có lời khai của anh Đ, song xét tình trạng mâu thuẫn giữa chị P và anh Đ đã trầm trọng, kéo dài, chị P kiên quyết xin ly hôn, HĐXX căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị P được ly hôn anh Đ.

[3]. Về con chung: Chị P và anh Đ có 01 con chung là Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017. Hiện nay cháu Dương đang được chị P và bố mẹ đẻ chị P nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Khi ly hôn, chị P có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Quá trình làm việc, gia đình anh Đ có trình bày gia đình và anh Đ có nguyện vọng được nuôi cháu Dương và không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, Tòa án đã triệu tập anh Đ đến làm việc nhưng anh Đ không đến Tòa án làm việc, không có bản trình bày quan điểm hay ý kiến của anh về nội dung vụ án. Hội đồng xét xử thấy, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt, cũng như để ổn định, không gây xáo trộn cuộc sống của cháu Dương cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cho chị Lưu Thị P được nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung là Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Sau này, vì quyền lợi của con chung các bên đương sự vẫn có quyền yêu cầu hoặc thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị P có yêu cầu anh Đ phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con theo mức 1.500.000 đồng/1 tháng. Hội đồng xét xử thấy: Cháu Trần Hữu Đ Dương được giao cho chị P là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do anh Đ không đến Tòa án làm việc, Tòa án căn cứ vào biên bản xác minh với chính quyền địa phương về mức thu nhập và chi phí sinh hoạt chung trên địa bàn xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang thì tùy từng gia đình có điều kiện kinh tế khác nhau thì có sự khác nhau nhưng mức thu nhập bình quân khoảng 5.000.000đồng/người/tháng. Qua biên bản làm việc với bố anh Đ thì hàng tháng anh Đ gửi về cho gia đình 8.000.000 đồng để chi tiêu trong gia đình và cất giữ hộ. Xét thấy, chị P có công việc, thu nhập ổn định. Việc nuôi con là trách nhiệm chung của cả bố và mẹ. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu mức cấp dưỡng 1.500.000 đồng/01 tháng của chị Lưu Thị P. Căn cứ khoản 2, Điều 82- Luật Hôn nhân và gia đình, buộc anh Đ cấp dưỡng nuôi con cho chị Lưu Thị P theo mức 1.000.000 đồng/01 tháng là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của các đương sự và con chung. Do không có sự thỏa thuận về thời gian, hình thức, phương thức cấp dưỡng nên thực hiện thời gian cấp dưỡng tính bằng tháng, mỗi tháng một lần, thời gian thực hiện việc cấp dưỡng kể từ ngày 16/3/2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị P phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Anh Đ phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7]. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chị Lưu Thị P được ly hôn anh Trần Hữu Đ.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Trần Hữu Đ Dương, sinh ngày 08/4/2017 cho chị Lưu Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc anh Trần Hữu Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Lưu Thị P theo mức 1.000.000 đồng/01 tháng. Thời gian thực hiện việc cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm (16/3/2022) cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày chị Lưu Thị P có đơn yêu cầu thi hành án mà anh Trần Hữu Đ không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 – Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Anh Trần Hữu Đ không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở anh Đg thực hiện quyền này.

Sau này, vì quyền lợi của con chung các bên đương sự vẫn có quyền yêu cầu hoặc thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

4. Án phí sơ thẩm:

- Chị Lưu Thị P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị P đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012569 ngày 02/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang. Xác nhận chị P đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Anh Trần Hữu Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí do có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

5. Về quyền kháng cáo: Chị P, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về