Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 133/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 133/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 209/2022/TLST-HNGĐ ngày 30/5/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 215/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm: 1989; (có đơn xin vắng mặt)  Địa chỉ: ấp C, xã V, huyện T, tỉnh Long An.

Bị đơn: Anh Lê Văn N, sinh năm 1990; (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin giải quyết vắng mặt cùng các  văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án, nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày:

- Về hôn nhân: Chị L và anh N kết hôn vào năm 2017, anh chị có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Thanh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hôn nhân do tự nguyện. Thời gian đầu, anh chị sống hạnh phúc nhưng đến năm  2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị L cho rằng anh N không chăm lo cho vợ con. Anh chị đã ly thân từ đầu  năm 2020 đến nay. Nay chị L xác định không còn tình cảm với anh N nên yêu  cầu Tòa án giải quyết được ly hôn.

- Về con chung: Quá trình chung sống có 01 con chung tên Lê Trọng N, sinh ngày 30/01/2018. Con hiện đang do chị nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con, chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai   chứng cứ và hòa giải cho anh N nhưng anh N đều vắng mặt và cũng không gởi bất kỳ văn bản trình bày ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của chị L.

Tại phiên toà, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát   biểu:

-Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của   Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Chị L thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 Bộ luật Tố tụng Dân sự, anh N chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều  70 và Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự, vắng mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L. Về con chung: Đề nghị giao con chung Lê Trọng Nhân  sinh ngày 30/01/2018 cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng. Ghi nhận chị L không yêu  cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại  phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng: Chị L có đơn đề nghị Tòa án giải quyết xin ly hôn, tranh  chấp nuôi con với anh N. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền  của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn chị L có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn  anh N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên toà không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228  Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị L và anh N.

[2] Về hôn nhân: Chị L và anh N có đăng ký kết hôn vào ngày 17/8/2017 tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Thanh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Xét thấy, chị L và anh N tự nguyện tiến đến hôn nhân có thời gian chung sống với nhau hơn 03 năm hạnh phúc. Nhưng đến năm 2020, anh chị xảy ra bất đồng quan điểm, nên không còn thương yêu, chăm sóc lẫn nhau. Theo chị L, anh chị đã ly thân, chị L và con dọn  về nhà mẹ ruột sinh sống từ  đầu năm 2022 đến nay.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân được xác lập trên cơ sở tự nguyện của cả hai phía, Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để tạo điều kiện động viên cho hai anh chị hàn gắn, nhưng anh N đều vắng mặt nên không thể hoà giải cho anh chị. Chị L xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh N không còn, không thể hàn gắn được. Qua đó cho thấy, anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng giữa anh chị không thể hàn gắn được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, không có khả năng đoàn tụ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị L và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, cho chị L được ly hôn với anh N.

[3] Về con chung: Xét thấy, con chung Lê Trọng N, sinh ngày 30/01/2018 hiện do chị L đang nuôi dưỡng. Để đảm bảo cho cháu được ổn định cuộc sống,  tránh gây xáo trộn ảnh hưởng đến tâm lý trẻ nhỏ nên theo yêu cầu của chị L và đề  nghị của đại diện Viện kiểm sát giao con cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù   hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi  nhận chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L khai không có nên Hội đồng xét xử  không xem xét.

[5] Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là  300.000 (ba trăm nghìn) đồng

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các  Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều  27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,  Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị L 

[1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị L được ly hôn với anh Lê Văn N.

[2]Về con chung: Giao con chung Lê Trọng N, sinh ngày 30/01/2018 cho chị Lê Thị L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị Lê Thị L không yêu cầu anh Lê Văn N cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được   cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết   định thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa  án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. [3] Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

[4] Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0008096 ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Chị Lê Thị L đã nộp xong án phí.

[5] Về quyền kháng cáo bản án: Chị Lê Thị L và anh Lê Văn N được  quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 133/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:133/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về