TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH B
BẢN ÁN 13/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh B tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 484/2023/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2023 về việc “ly hôn; tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/QĐST- HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Mai Quang Tr, sinh năm 1985; hộ khẩu thường trú:
Số 15, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, khu phố 7, thị trấn D, huyện D, tỉnh B.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1987; hộ khẩu thường trú: Ấp Bàu D, xã Đ, huyện D, tỉnh B.
Nguyên đơn có mặt. Bị đơn vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa nguyên đơn (ông Tr) trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông Tr và bà L chung sống với nhau từ năm 2009, hôn nhân tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn D, huyện D, tỉnh B ngày 05/3/2009 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 43, quyển số 01/2009.
Lý do xin ly hôn: Quá trình chung sống, vợ chồng sống chung không hợp, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, bà L không có sự quan tâm chăm sóc chồng, con, đời sống vợ chồng quá mệt mỏi, không có hạnh phúc nên không còn sống chung từ khi con gái được một tuổi là từ năm 2010. Từ năm 2010 đến nay bà L không quan tâm, chăm sóc chồng, con. Tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên nguyên đơn quyết định làm đơn xin ly hôn với bị đơn.
Về con chung: Có 01 con chung tên Mai Thị Yến Nh, sinh ngày 09/02/2010. Ông Tr yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung;
không yêu cầu bà L phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu cầu, tranh chấp gì khác.
Đối với bị đơn:
Trong quá trình thụ lý, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ theo quy định pháp luật để báo cho bị đơn biết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.
- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại các Điều 26, 35, 39 về thẩm quyền thụ lý vụ án; Điều 68 về xác định tư cách tham gia tố tụng; các Điều 93 đến 97 về việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ; Điều 195, 196 về trình tự thụ lý, giao nhận thông báo thụ lý; Điều 203 về thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 70 và 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy: Tình trạng hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn bà Nguyễn Thị Kim L có hộ khẩu thường trú tại xã Đ, huyện D, tỉnh B, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh B.
Do bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2009, hôn nhân tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn D, huyện D, tỉnh B ngày 05/3/2009 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 43, quyển số 01/2009. Như vậy, quan hệ hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Xét thấy, quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập các bên đương sự để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bị đơn không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Điều này cho thấy bị đơn không có thiện chí hòa giải đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng với nguyên đơn, nguyên đơn cũng kiên quyết xin ly hôn do không còn khả năng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại Biên bản xác minh ngày 10/11/2023, gia đình bị đơn xác nhận do mâu thuẫn trầm trọng nên nguyên đơn và bị đơn không còn sống chung từ năm 2010 đến nay, hiện nay bị đơn đã lập gia đình và sinh sống ở địa phương khác.
Từ những căn cứ trên cho thấy mâu thuẫn giữa nguyên đơn và bị đơn đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, do vậy được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 01 (một) con chung tên Mai Thị Yến Nh, sinh ngày 09/02/2010. Nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.
Theo bản tự khai ngày 04/3/2024 và biên bản lấy lời khai ngày 04/3/2024, con chung tên Mai Thị Yến Nh có nguyện vọng được sống với ba là nguyên đơn, mong muốn được nguyên đơn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bị đơn không lên Tòa án làm việc nên không ghi nhận được ý kiến của bị đơn về con chung, nguyên đơn là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi con chung được một tuổi cho đến nay, hiện nay nguyên đơn cũng có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vì vậy cần tiếp tục giao con chung tên Mai Thị Yến Nhi cho nguyên đơn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của con chung. Yêu cầu của nguyên đơn về con chung là phù hợp với quy định tại Điều 69, 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, do vậy được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con chung. Xét đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[3] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
[4] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh B là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Các Điều 28, 39, 147, 179, 227, 228, 235, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điều 17 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “ly hôn; tranh chấp nuôi con” của ông Mai Quang Tr.
1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Mai Quang Tr được ly hôn với bà Nguyễn Thị Kim L.
2. Về con chung: Giao con chung tên Mai Thị Yến Nh, sinh ngày 09/02/2010 cho ông Mai Quang Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Mai Quang Tr về việc không yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim L cấp dưỡng nuôi con chung.
Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung: Không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Về án phí:
Ông Mai Quang Tr phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009587 ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh B.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/3/2024). Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt, niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 13/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về