Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 129/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 129/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 173/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2022; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 01/2022/TB-TA ngày 20 tháng 7 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số 91 Tứ Th, phường Tứ M, thành phố H tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn Kh, sinh năm 1985.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 91 Tứ Th, phường Tứ M, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Nhật Bản.

Người được anh Kh ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số 91 Tứ Th, phường Tứ M, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Đỗ Văn Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tứ M (nay là phường Tứ M), thành phố H, tỉnh Hải Dương vào ngày 05/11/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách vợ chồng không hợp, anh Kh thường hay chửi mắng, xúc phạm chị dẫn đến tình cảm vợ chồng có nhiều rạn nứt. Đầu năm 2018 anh Kh đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản đến nay chưa về nước. Vợ chồng sống xa cách quá lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn Kh.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đỗ Thị Kim O, sinh ngày 18/4/2008 và Đỗ Tuấn T, sinh ngày 21/3/2012, hiện các con đang ở với ông bà nội. Khi ly hôn, chị đề nghị được nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi), anh chị tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu khác, bị đơn anh Đỗ Văn Kh trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H có quan hệ hôn nhân như chị H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh đi lao động nước ngoài thời gian dài, vợ chồng không quan tâm đến nhau và đã sống ly thân từ lâu. Nay, chị H có đơn xin ly hôn, anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên anh nhất trí ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Về con chung; Vợ chồng có 2 con chung như chị H trình bày là đúng, khi ly hôn anh nhất trí để chị H nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên, anh chị tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng tiền nuôi con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định vợ chồng không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện anh Kh đang lao động tại Nhật Bản nên anh ủy quyền cho chị H thay anh giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án, đồng thời đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Con chung của chị H, anh Kh là cháu Đỗ Thị Kim O và cháu Đỗ Tuấn T có nguyện vọng được ở với chị H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Đỗ Văn Kh. Về con chung: Giao con chung Đỗ Thị Kim O và Đỗ Tuấn T cho chị H nuôi dưỡng. Về án phí: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H đang sinh sống tại phường Tứ M, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Bị đơn anh Đỗ Văn Kh có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở số 91 Tứ Th, phường Tứ M, thành phố H, tỉnh Hải Dương, hiện anh đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Mặc dù, anh Kh không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng anh đã gửi các tài liệu gồm: Đơn xin ly hôn, bản tự khai, đơn xin giải quyết vắng mặt và giấy ủy quyền về Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Tòa án đã trưng cầu giám định dấu vân tay của anh Kh đối với các tài liệu này. Kết luận giám định cho thấy, dấu vân tay của anh Kh trong các tài liệu trên so với dấu vân tay in trong căn cước công dân của anh Kh là của cùng một người. Do vậy, có đủ cơ sở khẳng định nội dung trong các văn bản mà anh Kh gửi về đúng là ý chí, nguyện vọng của anh. Chị H, anh Kh đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Văn Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tứ M (nay là phường Tứ M), thành phố H, tỉnh Hải Dương vào ngày 05/11/2007 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Năm 2018, anh Kh đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, vợ chồng không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay, chị H và anh Kh đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị H có đơn xin ly hôn, anh Kh nhất trí. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Kh đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh Kh là phù hợp với Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Đỗ Văn Kh có 02 con chung là Đỗ Thị Kim O, sinh ngày 18/4/2008 và Đỗ Tuấn T, sinh ngày 21/3/2012. Ly hôn chị H và anh Kh đều thống nhất giao 2 con chung cho chị H nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi), anh chị tự thống nhất, thỏa thuận với nhau về việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Cháu Đỗ Thị Kim O và Đỗ Tuấn T đều có nguyện vọng được ở với chị H. Hội đồng xét xử thấy việc thỏa thuận của các đương sự là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật nên có căn cứ chấp nhận.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, do anh Kh và chị H tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do chị H, anh Kh xác định không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Đỗ Văn Kh.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung là Đỗ Thị Kim O, sinh ngày 18/4/2008 và Đỗ Tuấn T, sinh ngày 21/3/2012 cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi). Các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đỗ Văn Kh được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0001051 ngày 08 tháng 6 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Đỗ Văn Kh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 129/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:129/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về