Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 127/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 127/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 70/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Kiều T, sinh năm: 1989; HKTT: Thôn LH, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q; Chỗ ở hiện nay: Thôn CN, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q (có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Thôn CN, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13 tháng 4 năm 2022 và trong quá trình giải quyết, xét xử, nguyên đơn bà Phan Thị Kiều T trình bày:Bà Phan Thị Kiều T và ông Nguyễn Hoàng V kết hôn với nhau vào ngày 18 tháng 9 năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, kết hôn hoàn toàn tự nguyện và được sự đồng ý của hai bên gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau tại thôn CN, xã Đ được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính cách trái ngược và chung sống không hòa hợp, vợ chồng không có sự chia sẻ, bản thân bà T phải gánh vác kinh tế. Mặc dù hiện nay vợ chồng vẫn còn sống chung một nhà nhưng 2 vợ chồng đã ly thân với nhau vào khoảng đầu năm 2020 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, bà T không thể sống chung với ông V nên yêu cầu được ly hôn ông Nguyễn Hoàng V. Vợ chồng có 01 con chung tên là Nguyễn N, sinh ngày 26 tháng 01 năm 2018, hiện nay con đang sống với vợ chồng, nay ly hôn bà T có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Bản thân bà T làm nhân viên y tế tại Công ty VT – Chi nhánh Đà Nẵng, thu nhập 15.000.000đ/1 tháng, có thời gian và kinh tế để chăm sóc con. Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05 tháng 5 năm 2022 và trong quá trình giải quyết, xét xử bị đơn ông Nguyễn Hoàng V trình bày: Về thời gian và địa điểm đăng ký kết hôn, ông V hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của bà T và không bổ sung gì thêm. Vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng cuộc sống đôi khi xảy ra mâu thuẫn nhỏ, vợ chồng có bàn bạc giải quyết. Việc bà T cho rằng vợ chồng mặc dù sống chung nhưng đã ly thân từ khoảng đầu năm 2020 là không đúng, vợ chồng không sinh hoạt chung nhưng vẫn không xảy ra mâu thuẫn. Do dịch bệnh Covid-19, ông V ở nhà nên ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, nay ông V đã đi làm bình thường và có thu nhập. Bản thân ông V thấy vợ chồng mâu thuẫn không trầm trọng, ông V vẫn còn thương vợ và sống vì con nên không đồng ý ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung, họ tên ngày tháng năm sinh như bà T trình bày là đúng. Hiện nay con đang sống với vợ chồng, nếu Tòa án buộc ly hôn thì ông V có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Bản thân ông V làm nghề kinh doanh tự do, thu nhập bình quân 10.000.000đ/1 tháng, con hiện nay do cha mẹ và ông bà nội cùng chăm sóc, ông V vẫn đảm bảo thời gian và thu nhập để nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không yêu cầu giải quyết.

Ngoài ra, bà T và ông V không có ý kiến gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện Bàn phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS, đương sự chấp hành tốt quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án Viện kiểm sát cho rằng: bà T và ông V đã mâu thuẫn trầm trọng nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà T, cho bà T được ly hôn ông V, về con chung đề nghị giao con Nguyễn Nguyên cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa nguyên đơn bà Phan Thị Kiều T và bị đơn ông Nguyễn Hoàng V; bị đơn ông Nguyễn Hoàng V đang cư trú tại thôn CN, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Kiều T và ông Nguyễn Hoàng V là vợ chồng có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 18 tháng 9 năm 2017 tại UBND xã Đ, việc kết hôn là tự nguyện. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông V là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, bà T cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính cách trái ngược và chung sống không hòa hợp, vợ chồng không có sự chia sẻ, bản thân bà T phải gánh vác kinh tế, mặc dù hiện nay vợ chồng vẫn còn sống cùng nhà nhưng đã ly thân với nhau từ khoảng đầu năm 2020 đến nay, vợ chồng không có tiếng nói chung, tình cảm vợ chồng không còn. Ông V cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đôi khi xảy ra mâu thuẫn nhỏ, vợ chồng có bàn bạc giải quyết, do dịch bệnh Covid 19 nên ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, nay ông V đã đi làm bình thường và có thu nhập, bản thân ông V vẫn còn tình cảm và mẫu thuẫn vợ chồng không trầm trọng nên không đồng ý ly hôn Qua xác minh thì địa phương thì không rõ nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn, Tòa án đã 2 lần hòa giải động viên vợ chồng về chung sống nhưng không thành, bà T và ông V cũng không có biện pháp nào khắc phục mâu thuẫn. Tại phiên toà bà T vẫn cương quyết xin được ly hôn ông V, ông V chỉ đồng ý ly hôn khi bà T giao con cho ông V nuôi. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông V là đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử đã thống nhất cho bà T được ly hôn ông V là phù hợp với các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Bà T và ông V khai thống nhất có một con chung là Nguyễn Nguyên, sinh ngày 26 tháng 01 năm 2018, hiện nay con đang ở với vợ chồng tại thôn CN, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q. Bà T và ông V đều có nguyện vọng và điều kiện nuôi con. HĐXX xét thấy con Nguyễn Nguyên hiện nay trên 36 tháng tuổi nhưng vẫn còn nhỏ, do đó để đảm bảo tốt nhất về mọi mặt nên HĐXX thống nhất giao con Nguyễn Nguyên cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con. Ông V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn không ai được cản trở.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Tại phiên tòa các đương sự tự thỏa thuận giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà Phan Thị Kiều T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Kiều T đối với ông Nguyễn Hoàng V về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” 1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Phan Thị Kiều T được ly hôn ông Nguyễn Hoàng V.

2/ Về con chung: Có 01 con chung.

Giao con Nguyễn N, sinh ngày 26 tháng 01 năm 2018 cho bà Phan Thị Kiều T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Phan Thị Kiều T không yêu cầu ông Nguyễn Hoàng V cấp dưỡng nuôi con. Ông Nguyễn Hoàng V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn không ai được cản trở.

3/ Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phan Thị Kiều T và ông Nguyễn Hoàng V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/ Về án phí: Bà Phan Thị Kiều T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001005 ngày 21 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Bà Phan Thị Kiều T đã nộp đủ án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 127/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:127/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về