Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 196/2021/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 12 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2022/QĐST- HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị Y, sinh năm 1994; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường NC, khu phố Đ, thị trấn L, huyện B, tỉnh D, có mặt

- Bị đơn: Anh Trần Quốc T, sinh năm 1994; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố Đ, thị trấn L, huyện B, tỉnh D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 11 năm 2021 và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn chị Lương Thị Như Y trình bày:

Về hôn nhân: Chị Y và anh T tự nguyện sống chung và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện B, tỉnh D theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 16, ngày 16 tháng 01 năm 2014. Sau khi kết hôn, chị Y và anh T sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên tranh cãi. Anh T không lo cho vợ, không có trách nhiệm với gia đình dù chị Y đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh T không thay đổi. Do mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Y và anh T không còn sống chung, chị Y đã về nhà mẹ ruột sinh sống. Chị Y yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị Y và anh T có 01 con chung tên Trần Lương Mạnh H, sinh ngày 24 tháng 5 năm 2015. Cháu Khang đang sinh sống cùng với chị Y. Khi ly hôn, chị Y yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia T sản chung, nợ chung: Chị Y không tranh chấp về T sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Quốc T được Tòa án triệu tập để lấy lời khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T vắng mặt không có lý do. Vì Vậy, Tòa án không ghi nhận được Y kiến của anh T. Ngày 18 tháng 4 năm 2022, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn anh Trần Quốc T tham gia phiên tòa nhưng anh T vắng mặt không lý do. Ngày 05 tháng 5 năm 2022, bị đơn anh Trần Quốc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Chị Y và anh T đã phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các T liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định:

[1] Về tố tụng: yêu cầu khởi kiện của chị Y về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, anh T có nơi cư trú tại khu phố Đồng Sổ, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia xét xử nhưng vẫn vắng mặt, cố tình không đến Tòa án làm việc là chưa thực hiện đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Căn cứ vào các T liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Y và anh T tự nguyện kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện B, tỉnh D theo Trích lục đăng ký kết hôn số 869/TLKH-BS, ngày 15 tháng 11 năm 2021 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Y và anh T là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị Y yêu cầu ly hôn với anh T vì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ nhiều năm trước nhưng trầm trọng nhất là sau khi kết hôn 01 năm, chị Y và anh T đã không sống chung với nhau từ cuối năm 2020, chị Y đã về nhà mẹ đẻ sinh sồng. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Qua xác minh tại chính quyền địa phương nơi nguyên đơn và bị đơn cư trú được biết: Trong quá trình chung sống, giữa chị Y và anh T có mâu thuẫn hay không thì chính quyền không nắm được. Hiện tại, chị Y và anh T hiện không còn sống chung. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Y đối với anh T là có căn cứ để chấp nhận và phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Y và anh T có 01 con chung tên Trần Lương Mạnh H, sinh ngày 24 tháng 5 năm 2015, chị Y yêu cầu được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Xét thấy, cháu H hiện nay dưới 7 (bảy) tuổi đang sống ổn định với chị Y. Do đó, tiếp tục giao cháu H cho cho chị Y trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu thành niên là phù hợp với Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: trong đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 11 năm 2021, chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu H. Xét thấy, việc chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu H là tự nguyện và phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về T sản chung và nợ chung: Chị Y và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Y kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con của chị Y đối với anh T được Tòa án chấp nhận nên theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Y phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm với mức thu là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lương Thị Như Y đối với bị đơn anh Trần Quốc T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị Như Y và anh Trần Quốc T.

- Về nuôi con chung: Giao con chung tên Trần Lương Mạnh H, sinh ngày 24 tháng 5 năm 2015 cho chị Y trực tiếp trôm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Quốc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về chia T sản chung, nợ chung: Chị Lương Thị Như Y và anh Trần Quốc T không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lương Thị Như Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0008868 ngày 17 tháng 12 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về