Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 16/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thanh H; nơi ĐKHKTT: Thôn M, thị trấn T, huyện T, Bình Định; tạm trú tại: 114/59/2 đường P, quận T, thành phố H (Có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Lê Thị Tiến H; cư trú tại: 1XXX W.1X St. Sioux City, IA 51XXX- USA (Vắng mặt lần thứ hai ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 02/3/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H trình bày:

Anh và chị Lê Thị Tiến H yêu thương tìm hiểu nhau từ năm 2005, đến năm 2008 thì anh chị có 01 con chung. Năm 2009 chị H sang Mỹ định cư cùng gia đình. Ngày 18 tháng 4 năm 2011, chị H quay về Việt Nam và anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau đến cuối tháng 4/2011 thì chị H trở về Mỹ, anh vẫn ở lại Việt Nam. Sau khi chị về Mỹ, vợ chồng vẫn liên lạc với nhau bình thường. Đến tháng 5/2016, chị H bảo lãnh anh sang Mỹ để vợ chồng đoàn tụ. Khi anh sang Mỹ sống được 02 tháng thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn tình cảm với nhau, nên anh trở về Việt Nam. Từ đó đến nay, vợ chồng không còn liên lạc với nhau nữa. Anh thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn, hôn nhân không hạnh phúc, nên yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh yêu cầu được ly hôn chị Lê Thị Tiến H.

Về nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Lê Tiến T, sinh ngày 16/11/2008 đang ở với chị H, sức khỏe bình thường. Anh đồng ý để chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu Tòa giải quyết về nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng anh không có tài sản chung, không nợ chung ai, cũng không ai nợ chung vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn - chị Lê Thị Tiến H: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa đã có công văn số 3939/CV-TA ngày 30/7/2020 gửi Bộ Tư pháp kèm theo hồ sơ ủy thác tư pháp để thực hiện việc ủy thác tư pháp về việc tống đạt văn bản tố tụng cho chị Lê Thị Tiến H. Tại công văn số 1054/BTP-PLQT ngày 06/5/2021 của Bộ Tư pháp đã trả lời về kết quả ủy thác tư pháp; theo đó, cơ quan có thẩm quyền của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thực hiện việc ủy thác nêu trên và đã chuyển cho người sống chung cùng chị H, nhưng chị H không đến tòa làm việc, cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến, quan điểm của chị đối với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh H cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh H, anh Nguyễn Thanh H được ly hôn chị Lê Thị Tiến H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về sự vắng mặt của đương sự:

[1.1] Đối với anh Nguyễn Thanh H: Anh H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[1.2] Đối với chị Lê Thị Tiến H: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa đã thực hiện việc Ủy thác tư pháp cho chị Lê Thị Tiến H, người sống chung nhà với chị H đã nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về việc tống đạt văn bản tố tụng cho chị Lê Thị Tiến H. Nhưng chị H không đến tòa làm việc, cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến, quan điểm của chị đối với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh H cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Tiếp đó, Tòa án đã gửi các thông báo triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; triệu tập tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, nhưng chị H vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản hồi bằng văn bản, nên Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thanh H và chị Lê Thị Tiến H đăng ký kết hôn 18 tháng 4 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định, nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau đến cuối tháng 4/2011 thì chị H trở về Mỹ, anh H vẫn ở Việt Nam. Tháng 5/2016, chị H bảo lãnh anh H sang Mỹ, vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn, đã phát sinh mâu thuẫn và anh H bỏ về Việt Nam - Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Từ đó cho đến nay, anh chị không sống chung với nhau, thiếu sự quan tâm, chăm sóc, chia sẽ lẫn nhau, nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Xét thấy tình trạng hôn nhân của hai anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu ly hôn chị H của anh H là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, nên được chấp nhận.

[3] Về nuôi con chung: Theo anh H khai giữa anh với chị H có 01 con chung là cháu Lê Tiến T, sinh ngày 16/11/2008 đang ở với chị H, sức khỏe bình thường. Anh H đồng ý để cháu T tiếp tục ở với chị H và không yêu cầu Tòa giải quyết về nuôi con chung, nên Tòa không giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp về nuôi con chung, Tòa sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi có đơn yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu, nên Tòa không giải quyết.

[5] Về án phí: Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV thì anh Nguyễn Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí anh đã nộp.

[6] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh H, anh Nguyễn Thanh H được ly hôn chị Lê Thị Tiến H là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thanh H được ly hôn chị Lê Thị Tiến H.

2. Về nuôi con chung: Tòa không giải quyết, nếu sau này có tranh chấp về nuôi con chung, sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu, Tòa không giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Thanh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí anh đã nộp theo biên lai thu số 0003819 ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định, anh H đã nộp đủ.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Thanh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận hoặc niêm yết bản chính bản án theo quy định của pháp luật. Chị Lê Thị Tiến H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày tính từ ngày nhận hoặc niêm yết bản chính bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về