TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 43/2021/TLST - HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021 về việc "Tranh chấp hôn nhân và gia đình". Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXX - HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Th, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn KD, xã VS, huyện VY, tỉnh Yên Bái (Có mặt tại phiên tòa)
2. Bị đơn: Anh Tăng Minh Th1, sinh năm 1980.
Địa chỉ: Xóm ĐM, xã BC, huyện Đ, Thái Nguyên.
(Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình tố tụng giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay nguyên đơn chị Trần Thị Th trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Tăng Minh Th1 đăng ký kết hôn ngày 08/7/2015 tại Ủy ban nhân dân xã VS, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Trước khi kết hôn, chị và anh Th1 có quen biết và tự nguyện tìm hiểu nhau trong khoảng thời gian năm tháng, được sự đồng ý của hai gia đình và tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương.
Sau khi kết hôn chị và anh Th1 sống tại gia đình chị tại xã VS huyện VY, tỉnh Yên Bái. Đến khi con của anh chị được 11 tháng là tháng 4 năm 2017 anh, chị chuyển về nhà anh Th1 tại xã BC, huyện Đ sinh sống. Mẫu Thẫn bắt đầu sảy ra từ khi anh, chị về sống cùng gia đình anh Th1. Nguyên nhân mâu Thẫn do anh Th1 thường xuyên đi chơi, không tu trí làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Do có nhiều người lạ đến đòi nợ nên chị phát hiện anh thường xuyên chơi lô đề, cờ bạc, chị có góp ý nhiều lần để anh Th1 thay đổi, quan tâm đến gia đình nhiều hơn. Mỗi lần góp ý anh Th1 thường to tiếng cãi cọ và có những lới nói xúc phạm chị. Từ cuối năm 2017 chị cùng con đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ chị tại xã VS huyện VY, tỉnh Yên Bái sinh sống. Anh, chị sống ly thân từ đó đến nay. Từ khi sống ly thân anh Th1 không có trách nhiệm với con, một năm mới gửi tiền cho chị nuôi con một đến hai lần, có lần gửi xong lại hỏi mượn lại và không gửi trả lại chị nữa. Chị có hỏi thì anh Th1 còn to tiếng chửi bới, dùng những lời nói xúc phạm chị. Thời gian ly thân giữa anh chị đã lâu, nay chị không còn yêu thương, quan tâm đến anh Th1 nữa, chị kiên quyết xin được ly hôn.
Về con chung: Chị và anh Th1 có một con chung là Tăng Thục Khuê, sinh ngày 29/5/2016. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến tuổi trưởng Th1, chị không yêu cầu anh Th1 cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị Th là lao động tự do, Th nhập hàng tháng khoảng 7 đến 8 triệu đồng/tháng.
Về tài sản chung: Chị và anh Th1 không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập và niêm yết các văn bản tố tụng đối với anh Tăng Minh Th1 để bảo đảm quyền, nghĩa vụ của anh Th1 trước pháp luật. Tuy nhiên, anh Th1 không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để chị Trần Thị Th và anh Tăng Minh Th1 đoàn tụ, cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Nhưng anh Th1 không đến để tham gia phiên họp và hòa giải. Do vậy, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, chị Th kiên quyết xin ly hôn, yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh Th1 cấp dưỡng nuôi con chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không tuân thủ các quy định của pháp luật, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết văn bản theo đúng quy định.
Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung khởi kiện của chị Trần Thị Th, cho ly hôn giữa chị Trần Thị Th và anh Tăng Minh Th1; Về con chung: Giao cháu Tăng Thục Khuê, sinh ngày 29/5/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Th1, do chị Th không yêu cầu.
Về tài sản chung: Chị Th và anh Th1 không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Chị Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo đối với bản án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ ý kiến đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của nguyên đơn. Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình. Bị đơn trong vụ án trong vụ án đăng ký hộ khẩu thường trú tại huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, vì vậy Thộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành Th thập chứng cứ bằng biện pháp lấy lời khai của đương sự nên việc xét xử có sự tham gia của Kiểm sát viên theo khoản 2 - Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
Kể từ khi thụ lý vụ án, quá trình giải quyết vụ án anh Th1 không đến Tòa án để làm việc, mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Nhưng anh Th1 không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Th và anh Tăng Minh Th1 có được tìm hiểu nhau và kết hôn trên cơ sở tự nguyên, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống, giữa chị Th và anh Th1 nảy sinh nhiều mâu Thẫn. Nguyên nhân, anh Th1 là lao động tự do Th nhập không ổn định, thiếu trách nhiệm với gia đình, không quan tâm chăm sóc vợ và con. Chị Th đã khuyên bảo nhiều lần, nhưng anh Th1 không thay đổi. Dẫn đến giữa chị Th và anh Th1 thường xuyên có lời nói xúc phạm nhau, anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Nay chị Th không còn yêu thương, quan tâm đến anh Th1 nữa, cương quyết xin được ly hôn.
Xét thấy, mâu Thẫn vợ chồng giữa chị Th và anh Th1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay Th kiên quyết xin ly hôn. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Th. Cho chị Trần Thị Th được ly hôn là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
Qua xác minh tại địa phương cho thấy: Trong quá trình sinh sống tại địa phương vợ chồng chị Th và anh Th1 có xảy ra mâu Thẫn, có lời qua tiếng lại. Nhưng cả chị Th, anh Th1 không báo chính quyền địa phương nên chính quyền địa phương không nắm rõ nguyên nhân mâu Thẫn của anh, chị.
Về con chung: Chị Trần Thị Th và anh Tăng Minh Th1 có 01 con chung là Tăng Thục Khuê, sinh ngày 29/5/2016. Khi ly hôn, chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Th1 phải đóng góp tiền để nuôi con chụng.
Từ khi chị Th và anh Th1 sống ly thân, chị Th là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cháu Khuê đến nay, cuộc sống của cháu đã ổn định.
Việc giao con chung của chị Th và anh Th1 cho ai là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục phải xem xét đến điều kiện của cả hai anh chị. Xét thấy, chị Th và anh Th1 đang ở độ tuổi lao động, có Th nhập. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, anh Th1 đã không đến Tòa án để giải quyết, mặc dù anh Th1 đã được Tòa án triệu tập nhiều lần. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ để bảo đảm quyền, nghĩa vụ của anh Th1 trước pháp luật nhưng anh Th1 vẫn vắng mặt, bên cạnh đó hiện anh Th1 thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Để bảo đảm cho con chung của anh chị được nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục đầy đủ cho phát triển cả về thể chất và tinh thần. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Th, giao con chung là cháu Tăng Thục Khuê, sinh ngày 29/5/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
Về tài sản chung: Chị Th và anh Th1 không có. Không yêu cầu Toà án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35;39;147; 227; 228; 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Th.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Th được ly hôn anh Tăng Minh Th1 2. Về con chung: Giao cháu Tăng Thục Khuê, sinh ngày 29/5/2016 cho chị Trần Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con trưởng Th1 (đủ 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác.
Anh Tăng Minh Th1 có quyền đi lại thăm nom mà không ai được cản trở Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Th1 do chị Th tự nguyện không yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị Th và anh Tăng Minh Th1 không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm sũng quỹ Nhà nước. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai Th số 0005270 ngày 23 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn tại phiên tòa, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 12/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về