Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 121/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 121/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại Hội trường xét xử - Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 203/2023/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 101/2023/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2023 giữa:

- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Ngọc P, sinh năm 1994; nơi cư trú: Tổ 6, ấp L, xã H, huyện Q, tỉnh Bình Phước; vắng mặt tại phiên tòa;

- Bị đơn: Ông Bùi Thế T, sinh năm 1993; nơi cư trú: ấp A xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 27/02/2023 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc P trình bày:

Sau thời gian quen biết, tìm hiểu; bà và ông Bùi Thế T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 07/2020 ngày 05/02/2020. Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, không có tiếng nói chung. Nguyên nhân là do ông T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không còn tình cảm vợ chồng với bà. Bà đã nhiều lần cho ông T cơ hội nhưng ông T không thay đổi. Hiện vợ chồng không còn tình cảm với nhau và cũng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2022 đến nay. Do đó, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Bùi Thế T.

+ Về con chung: Bà và ông Bùi Thế T có 01 con chung là Bùi Hoàng O, sinh ngày 16/6/2020. Sau khi ly hôn, yêu cầu giao con chung cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tuy nhiên, bị đơn ông Bùi Thế T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến và chứng cứ, tài liệu có liên quan về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Phần phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom tại phiên tòa:

+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật. Thẩm quyền giải quyết vụ án, việc thu thập chứng cứ, thời hạn giải quyết vụ án, gửi hồ sơ và tống đạt các văn bản tố tụng là đúng quy định của pháp luật. Việc xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định của pháp luật.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý đến khi xét xử là đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần 2 không có lý do nên đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định.

+ Về đường lối giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Giao con chung là Bùi Hoàng O, sinh ngày 16/6/2020 cho bà Hoàng Thị Ngọc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Bùi Thế T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

1.1 Nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc P khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, bị đơn ông Bùi Thế T có nơi cư trú tại xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai nên xác định bà P là nguyên đơn, ông T là bị đơn và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 2, 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

1.2 Nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc P có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn ông Bùi Thế T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà P, ông T.

[2] Về nội dung:

2.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị Ngọc P và ông Bùi Thế T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 07/2020 ngày 05/02/2020 nên quan hệ hôn nhân giữa bà P, ông T là hợp pháp.

Tại đơn khởi kiện và lời khai trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bà Hoàng Thị Ngọc P trình bày, trong quá trình chung sống giữa ông, bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, không có tiếng nói chung. Ông T có quan hệ tình cảm với người phụ nữa khác, bà P đã nhiều lần cho ông T cơ hội nhưng ông T không thay đổi. Hiện vợ chồng không còn tình cảm với nhau và cũng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2022 đến nay;

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn đến Tòa án làm việc nhưng ông T không có mặt; Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T; Tuy nhiên, ông T không cung cấp văn bản trình bày ý kiến và tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, có đủ cơ sở xác định ông T không mong muốn hàn gắn tình cảm hay tiếp tục xây dựng cuộc sống chung vợ chồng với bà P; Hôn nhân của bà P, ông T đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được; Do đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà P, ông T được ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

2.2 Về con chung: Bà P, ông T có 01 con chung là Bùi Hoàng O, sinh ngày 16/6/2020. Quá trình giải quyết vụ án, bà P yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và hiện nay, con chung cũng đang do bà P nuôi dưỡng. Xét yêu cầu của nguyên đơn và việc cần thiết cho sự phát triển ổn định của trẻ;

căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung là Bùi Hoàng O, sinh ngày 16/6/2020 cho bà Hoàng Thị Ngọc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; ông Bùi Thế T có nghĩa vụ đóng góp cho bà Hoàng Thị Ngọc P số tiền cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

Ông Bùi Thế T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày bà Hoàng Thị Ngọc P có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Bùi Thế T không cấp dưỡng nuôi con theo thỏa thuận như trên, thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất chậm trả được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2.3 Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

2.4 Về nợ chung: Nguyên đơn trình bày không có nợ chung nên không đặt ra xem xét.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Hoàng Thị Ngọc P phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm; ông Bùi Thế T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc P với bị đơn ông Bùi Thế T về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị Ngọc P được ly hôn với ông Bùi Thế T.

2. Về con chung: Giao con chung là Bùi Hoàng O, sinh ngày 16/6/2020 cho bà Hoàng Thị Ngọc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; ông Bùi Thế T có nghĩa vụ đóng góp cho bà Hoàng Thị Ngọc P số tiền cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

Kể từ ngày bà Hoàng Thị Ngọc P có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Bùi Thế T không cấp dưỡng nuôi con theo thỏa thuận như trên, thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất chậm trả được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Ông Bùi Thế T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Ông Bùi Thế T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Bà Hoàng Thị Ngọc P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình nhưng được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002499 ngày 27/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom. Bà Hoàng Thị Ngọc P đã nộp đủ án phí.

4. Thi hành bản án của Tòa án: Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy tại Điều 2, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 121/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:121/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về