Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 119/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B

BẢN ÁN 119/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 05/8/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 47/2022/TLST-HNGĐ ngày 25/3/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về con chung”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/3/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 80A/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hg Thị H, sinh năm 2000 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Ngọc Sơn, xã Chu Điện, huyện Lục Nam, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Đỗ Mạnh Đ, sinh năm 1995 ( Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Non Giếng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, tỉnh B. Hiện đang lao động tại nước ngoài không rõ địa chỉ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn là chị Hg Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Mạnh Đ trước khi cưới có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 24/5/2019 tại UBND xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, tỉnh B. Sau khi kết hôn anh Đ đi nước ngoài từ đó không về Việt Nam nữa. Ban đầu vợ chồng vẫn liên lạc nhưng một thời gian thì không liên lạc nữa, anh, chị phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hiểu và không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, anh chị không còn liên quan gì tới kinh tế và không quan tâm đến tình cảm của nhau nữa. Nay xác định tình cảm không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Mạnh Đ.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Đỗ Duy Mạnh, sinh ngày 24/01/2019. Hiện nay con chung đang ở cùng chị H. Ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị - Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Đ hiện đang lao động ở nước ngoài, không có địa chỉ cụ thể. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật đối với anh Đ đến nay không nhận được thông tin của anh Đ Tòa án đã xác minh thu thập chứng cứ thông qua mẹ đẻ của anh Đ là bà Nguyễn Thị Bằng, sinh năm 1970. Địa chỉ; thôn Non Giếng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, bà có quan điểm trình bày như sau:

Bà là mẹ đẻ của anh Đ, hiện nay anh Đ đang đi lao động tại nước ngoài và vẫn thường xuyên liên lạc về với gia đình. Về địa chỉ của anh Đ ở nước ngoài, bà không biết nên không cung cấp cho Tòa án được. Tòa án yêu cầu gia đình bà thông báo để anh Đ gửi qua điểm về thì gia đình bà từ chối thực hiện. Việc chị H xin ly hôn, anh Đ có quan điểm trao đổi với bà là: Anh Đ đồng ý ly hôn với chị H do vợ chồng không còn tình cảm. Về con chung là cháu Đỗ Duy Mạnh, sinh ngày 24/01/2019. Vợ chồng ly hôn, chị H đề nghị được nuôi con chung, anh Đ không có ý kiến gì. Tài sản chung, công nợ chung không có.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, chị H xin vắng mặt, không có quan điểm gì khác về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn. Anh Đỗ Mạnh Đ vắng mặt không có lý do và không có quan điểm gì trình bày. Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ xét thấy tình trạng mâu thuẫn của đương sự là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ được. Đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) căn cứ vào khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 53; khoản 1, Điều 56-Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị Hg Thị H được ly hôn anh Đỗ Mạnh Đ.Về con chung: Giao con chung là cháu Đỗ Duy Mạnh, sinh ngày 24/01/2019 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng không đặt ra xem xét giải quyết. Tài sản chung, công nợ: chị H không đề nghị nên không xem xét giải quyết. Về án phí: căn cứ khoản 4, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc chị Hg Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Hg Thị H là người Việt Nam, hiện đang sống và làm việc tại Việt Nam có đơn xin ly hôn và yêu cầu giải quyết nuôi con chung đối với anh Đỗ Mạnh Đ. Bị đơn anh Đ là người Việt Nam, có hộ khẩu thường trú tại thôn Thôn Non Giếng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, tỉnh B nhưng đang cư trú ở nước ngoài không có địa chỉ cụ thể. Căn cứ công văn số: 8832/QLXNC-P5 ngày 09/5/2022 của Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an thì anh Đ đã xuất cảnh ra nước ngoài ngày 03/6/2019, chưa thấy thông tin nhập cảnh về Việt Nam; không có thông tin địa chỉ nước đến, địa chỉ ở nước ngoài của anh Đ. Từ các nội dung trên, HĐXX xác định: về quan hệ pháp luật đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1, Điều 28- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; về thẩm quyền: do có đương sự ở nước ngoài nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh B, theo quy định tại khoản 2, Điều 123- Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 3, Điều 35; điểm c, khoản 1, Điều 37- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa chị H vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Đỗ Mạnh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Tòa án đã niêm yết tống Đ, thông báo các văn bản tố tụng cho anh Đ theo quy định tại khoản 5, Điều 177; Điều 179 - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. HĐXX thấy việc vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng quá trình giải quyết vụ án. Do vậy căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228- Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H, anh Đ.

[3]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Hg Thị H và anh Đỗ Mạnh Đ có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, tỉnh B. Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Hg Thị H và anh Đ là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn. Hiện chị Hg Thị H và anh Đỗ Mạnh Đ mỗi người sống một nơi, xa cách về địa lý và không còn quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống nữa. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nhưng chị H và anh Đ đã không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo như các quy định đã nêu ở trên. Như vậy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không Đ được. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 53; khoản 1, Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Hg Thị H được ly hôn anh Đỗ Mạnh Đ.

[4]. Về con chung:

Chị Hg Thị H và anh Đ có 01 con chung là cháu Đỗ Duy Mạnh, sinh ngày 24/01/2019. Chị H đề nghị được nuôi con chung. HĐXX thấy: Tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án anh Đ không có mặt ở tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về với gia đình. Anh Đ đồng ý để chị H nuôi con chung và hiện tại cháu Mạnh đang ở ổn định với chị H. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của con chung cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Đỗ Duy Mạnh, sinh ngày 24/01/2019.

Về cấp dưỡng nuôi con chung chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản (công nợ): chị H không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[6]. Về án phí: Căn cứ quy định tại khoản 4, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc chị Hg Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

[7]. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2, Điều 479- Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 53; khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 2, Điều 123- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1, Điều 28; khoản 3, Điều 35; điểm c, khoản 1, Điều 37; khoản 4, Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228; điểm b, khoản 1, Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2, Điều 479- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a, khoản 5, điểm a, khoản 6, Điều 27- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hg Thị H được ly hôn anh Đỗ Mạnh Đ.

2. Về con chung:

- Giao con chung là cháu Đỗ Duy Mạnh, sinh ngày 24/01/2019 cho chị Hg Thị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về án phí: Chị Hg Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0000 356 ngày 25/3/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B.

4. Về quyền kháng cáo:

- Anh Đỗ Mạnh Đ hiện đang cư trú ở nước ngoài, không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng (30 ngày) kể từ ngày bản án được tống Đ hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

- Chị Hg Thị H cư trú tại Việt Nam, không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống Đ hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và Điều 9- Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30- Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 119/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:119/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về