Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 119/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 119/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trương Trần Ngọc Uyên Nh; Sinh năm: 1978; Cư trú tại:

Số A, đường T, khóm V, phường X, thành phố C, tỉnh Cà Mau; (có mặt)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K; Sinh năm: 1980; Cư trú tại: Ấp B, xã K, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Trương Trần Ngọc Uyên Nh trình bày tại đơn khởi K, quá trình giải quyết vụ án và được bổ sung tại phiên tòa như sau:

- Hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn K tự nguyện kết hôn năm 2007, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường 5, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2012, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do ông K không quan tâm, chăm sóc vợ con, không lo kinh tế gia đình, thường xuyên bỏ nhà đi. Mặc dù bà đã cố gắng vun đắp, hàn gắn nhưng không có kết quả, vợ chồng đã ly thân với nhau. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn với ông K.

- Con chung: Bà và ông K có 01 người con chung tên Nguyễn Nhã Q, sinh ngày 24/11/2008, hiện đang sống cùng bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được quyền nuôi con, yêu cầu ông K cấp dưỡng 3.000.000 đồng/tháng. Tuy nhiên tại phiên tòa bà thay đổi ý kiến chỉ yêu cầu mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng. Theo bà biết thì hiện nay ông K phải nuôi mẹ ruột lớn tuổi, không còn khả năng lao động nhưng bà không cung cấp được chứng cứ chứng minh thu nhập của ông K.

- Tài sản chung: Bà xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung: Bà xác định vợ chồng không nợ ai, không ai nợ lại ông, bà.

Quá trình giải quyết vụ án, anh ông Nguyễn Văn K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo cho ông K đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông K vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi K của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Bị đơn ông Nguyễn Văn K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa; Giấy triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông K vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với ông K.

[2] Hôn nhân: Bà Trương Trần Ngọc Uyên Nh khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn K, Hội đồng xét xử thấy rằng bà Nh và ông K chung sống hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên hôn nhân của ông bà được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà Nh cho rằng thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do ông K không quan tâm, chăm sóc vợ con, không lo kinh tế gia đình, thường xuyên bỏ nhà đi, chung sống không hạnh phúc. Xét thấy, bà Nh và ông K xảy ra Nhều mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được, thực tế ông, bà đã sống ly thân với nhau, nếu tiếp tục chung sống sẽ không hạnh phúc. Tại phiên tòa, bà Nh kiên quyết yêu cầu ly hôn. Đối với ông K không có ý kiến nên không xem xét. Do đó, chấp nhận yêu cầu của bà Nh về việc ly hôn với ông K là có căn cứ.

[3] Con chung: Bà Nh và ông K có 01 người con chung tên Nguyễn Nhã Q, sinh ngày 24/11/2008, hiện đang sống cùng bà Nh. Khi ly hôn, bà Nh yêu cầu được quyền nuôi con. Xét thấy cháu Q là nữ cần sự chăm sóc, giáo dục của người mẹ, hiện nay cháu Q sống ổn định cùng bà Nh và có nguyện vọng được sống cùng mẹ khi cha mẹ cháu ly hôn tại Biên bản ghi nhận ý kiến con ngày 14/6/2022. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Nh, giao cháu Q cho bà Nh tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ.

Về mức cấp dưỡng: Tại phiên tòa, bà Nh yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng, nhưng bà Nh không cung cấp được chứng cứ chứng minh thu nhập của ông K. Tuy nhiên cháu Q hiện đang phát triển về thể chất, tâm lý, đang học tập nên cần khoản chi phí tương ứng với sự phát triển của cháu. Xét thấy để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của cháu Q, Hội đồng xét xử thấy rằng mức cấp dưỡng 1.500.000 đồng/tháng là phù hợp, nên cần buộc ông K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng là có căn cứ.

[4] Tài sản chung: Bà Nh xác định không có. Đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

[5] Nợ chung: Bà Nh xác định ông, bà không có nợ chung. Không ai yêu cầu về nợ chung nên không xem xét, giải quyết.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 110, 116 của Luật Hôn nhân và gia đình; Các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

Hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Trần Ngọc Uyên Nh về việc yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn K.

Con chung: Giao Nguyễn Nhã Q, sinh ngày 24/11/2008, hiện đang sống cùng bà Nh cho bà Nh tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Buộc ông K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/tháng.Thời gian bắt đầu cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Nguyễn Nhã Q đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày bà Trương Trần Ngọc Uyên Nh có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Nguyễn Văn K không tự nguyện thi hành xong số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành.

Tài sản chung; Nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Bà Trương Trần Ngọc Uyên Nh phải nộp 300.000 đồng. Ngày 15/4/2022, bà Nh đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau theo biên lai số 0001176, được đối trừ, chuyển thu, nộp vào Ngân sách nhà nước.

Án phí cấp dưỡng: Buộc ông Nguyễn Văn K phải nộp 300.000 đồng (chưa nộp). Nguyên đơn có quyề n kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 119/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:119/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về