TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 115/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 17 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 200/2021/TLST-HNGĐ ngày 13/5/2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 204/2021/QĐ-ST ngày 03/11/2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm 1990.
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
- Bị đơn: anh Trần Văn S, sinh năm 1991.
Địa chỉ: ấp Phú T, xã T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Nguyên đơn chị T có đơn xin vắng mặt. Bị đơn anh S vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Diễm T trình bày:
Chị với anh Trần Văn S chung sống với nhau từ năm 2014, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc bên nhà cha mẹ chồng, tuy nhiên khi chị sinh con thì trở về nhà cha mẹ ruột sống tại huyện Chợ Mới để được chăm sóc sau sinh và cũng từ đây bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân anh S thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh S lại cự cãi, chửi bới chị. Đến tháng 01/2015 anh S bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng cũng chính thức sống ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, không muốn hàn gắn nên chị T yêu cầu giải quyết như sau:
+ Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Diễm T xin được ly hôn với anh Trần Văn S.
+ Về quan hệ con chung: Có một con chung tên Trần Văn K sinh ngày 05/11/2014 hiện đang sống với chị T. Sau ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.
+ Về tài sản chung và nợ chung: không có.
- Bị đơn anh Trần Văn S: Tòa án đã tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho anh S nhưng từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay anh S vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị T.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong thời hạn chuẩn bị xét xử:
Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm hiện tại, nhận thấy Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như: xác định đúng quan hệ tranh chấp, thụ lý và giải quyết theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Quá trình thụ lý Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ khi tiến hành lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, tống đạt và niêm yết hợp lệ các thông báo và quyết định, thời hạn chuẩn bị xét xử đúng theo quy định của pháp luật.
+ Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:
Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án.
+ Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật (nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt).
Bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất, lần thứ hai không có lý do chính đáng đã từ bỏ quyền của mình.
+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân: chị T được ly hôn với anh S.
Về con chung: giao cháu Kiệt cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng do chị T không yêu cầu.
Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét.
Chị T phải chịu án phí theo qiuy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn và nuôi con. Bị đơn anh Trần Văn S có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp P, xã Tây Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn.
[1.2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Diễm T có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Trần Văn S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào quy định tại tại điểm b khoản 2 điều 227, khoản 1, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh S.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Chị Nguyễn Thị Diễm T và anh Trần Văn S chung sống với nhau từ năm 2014 có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 100 ngày 02/6/2014. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2] Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị Diễm T, thấy: Vợ chồng chị T và anh S đã sống ly thân từ tháng 01/2005 cho đến nay. Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/7/2021, chị T trình bày rằng sau khi vợ chồng sống ly thân chị cũng chờ đợi anh S mong muốn vợ chồng hàn gắn nhưng qua một thời gian dài anh S vẫn không quan tâm đến vợ con, anh S cũng không có ý định quay lại sống chung. Tại biên bản xác minh ngày 16/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn cũng thể hiện, hiện nay chị T và anh S không còn sống chung, anh S cũng thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Trong quá trình giải quyết Tòa án có tiến hành thông báo hòa giải nhằm mục đích động viên, hàn gắn nhưng anh S vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng với chị T để xây dựng hạnh phúc gia đình và chăm sóc con. Hội đồng xét xử xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh S không còn, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.
[2.3] Về quan hệ con chung: Qua chứng cứ chị T chung cấp thì chị T và anh S có một con chung tên Trần Văn K sinh ngày 05/11/2014. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay chị T là người trực tiếp chăm sóc, giáo dục con chung, Trong quá trình giải quyết phía anh S cũng không có văn bản nào thể hiện muốn được chăm sóc nuôi dưỡng con. Xét thấy, có đủ căn cứ áp dụng điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung Văn Kiệt cho chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu.
[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: không có.
[3] Từ những phân tích trên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn là phù hợp.
[4] Về án phí: Chị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 điều 28, điều 35, điều 39, khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 và khoản1, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điều 9, điều 56, điều 81, điều 82, điều 83, điều 84 và khoản 1 điều 88 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Diễm T.
- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Diễm T được ly hôn với anh Trần Văn S.
Giấy chứng nhận kết hôn số 100 ngày 02/6/2014 của Ủy ban nhân dân xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
- Về quan hệ con chung:
Giao con chung Trần Văn K sinh ngày 05/11/2014 cho chị Nguyễn Thị Diễm T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị T phải tạo điều kiện cho anh S được quyền đến thăm nom con, không ai được ngăn cản.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hay việc cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: không có. Tuy nhiên sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Nguyễn Thị Diễm T và anh Trần Văn S phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
2. Về án phí: chị Nguyễn Thị Diễm T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008400 ngày 13/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang nên đã nộp xong.
Chị Nguyễn Thị Diễm T và anh Trần Văn S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã (thị trấn) nơi cơ trú để yêu cầu xem xét phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 115/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 115/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về