TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 114/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 82/2021/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 04 năm 2021 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 31 tháng 05 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Hà Văn H, sinh năm: 1989 HKTT: Thôn Ba, xã Ban Công, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa ngày 15/6/2021).
- Bị đơn: Chị Đặng Thị Th, sinh năm: 1990 HKTT: Thôn Ba, xã Ban Công, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin giải quyết vắng mặt ngày 24/5/2021).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 20/4/2021 và quá trình giải quyết vụ án anh Hà Văn H trình bày: Anh và chị Đặng Thị Th tự do tìm hiểu, tổ chức cưới theo phong tục tập quán, đăng ký kết hôn tại UBND xã Ban Công, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa ngày 04/01/2010. Quá trình chung sống nảy sinh mâu thuẫn nguyên nhân do hai vợ chồng không phù hợp về tính cách, vợ chồng dần phai nhạt tình cảm, từ năm 2017 chị Th đã không về chung sống với anh nữa, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Quá trình ly thân vợ chồng vẫn trao đổi với nhau để hỏi thăm con chung, anh cũng đã động viên nhưng chị Th cương quyết không quay về cùng chung sống. Xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Đặng Thị Th.
- Về con cái: Vợ chồng anh có 01 con chung là Hà Phương Thùy, sinh ngày 02/02/2011. Hiện nay cháu đang ở với anh H, ly hôn anh có nguyện vọng tiếp tục nuôi con và không yêu cầu chị Th cấp dưỡng.
- Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 24/5/2021 chị Thu trình bày: Chị với anh H tự do tìm hiểu, tổ chức cưới theo phong tục tập quán, đăng ký kết hôn tại UBND xã Ban Công, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa ngày 04/01/2010. Quá trình chung sống nảy sinh mâu thuẫn nguyên nhân do hai vợ chồng không phù hợp về tính cách, vợ chồng dần phai nhạt tình cảm, vợ chồng ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Quá trình ly thân vợ chồng cũng có trao đổi để quay về đoàn tụ nhưng chị thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống được nữa nên cũng đồng ý ly hôn để giải thoát cho nhau.
- Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là Hà Phương Thùy, sinh ngày 02/02/2011. Hiện nay cháu đang ở với anh H, ly hôn chị để cho anh H tiếp tục nuôi con và chị không cấp dưỡng, khi nào có chị sẽ tự cho con.
- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án anh Hảo đề nghị không tiến hành hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS). Tòa án cũng đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho các bên đương sự nhưng chị Thu không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho chị Th. Chị Th có đơn xin giải quyết vắng mặt, anh Hảo đã có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ điều 227, điều 228, điều 238 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H và chị Th.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh Hảo được ly hôn chị Th. Về con cái: Giao cháu Hà Phương Thùy, sinh ngày 02/02/2011 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên, chị Thu không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Anh Hà Văn H và chị Đặng Thị Th đến với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký lết hôn tại UBND xã Ban Công ngày 04/01/2010 và không vi phạm các điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do hai vợ chồng không phù hợp về tính cách, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, vợ chồng không thể khắc phục được nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vì vậy vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay, không ai quan tâm ai. Việc này đã được thể hiện trong biên bản xác minh tình trạng hôn nhân của Tòa án. Cả anh Hảo và chị Thu đều có nguyện vọng ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàng gắn, đời sống chung khó khăn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Hảo được ly hôn với chị Thu để giải phóng cho nhau là cần thiết và phù hợp pháp luật.
[2] Về con cái: Anh H và chị Th có 01 con chung là cháu Hà Phương Thùy, sinh ngày 02/02/2011. Từ khi vợ chồng ly thân nhau cháu Phương Thùy ở với anh Hảo, cháu Phương Thùy có nguyện vọng ở với anh H. Ly hôn anh Hảo có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con và chị Thu cũng có nguyện vọng để cho anh Hảo tiếp tục nuôi con chung. Để đảm bảo khả năng phát triển bình thường và điều kiện học hành ổn định cho con trẻ, tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cháu. Nghĩ nên, chấp nhận yêu cầu của anh Hảo và chị Thu giao cháu Hà Phương Thùy cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, nguyện vọng của cháu Phương Thùy và các quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung anh Hảo không yêu cầu nên miễn xét.
[3] Về tài sản: Anh H và chị Th không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[4] Về án phí: Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 điều 56, các điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 điều 28, khoản 4 điều 207, khoản 1 điều 227, điều 228, điều 238 khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.
Về hôn nhân: Xử cho anh Hà Văn H được ly hôn chị Đặng Thị Th.
Về con cái: Giao cháu Hà Phương Thùy, sinh ngày 02/02/2011 cho anh Hà Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Chị Thu không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Chị Đặng Thị Th có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về án phí: Anh Hà Văn H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí anh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bá Thước theo biên lai số: AA/2019/0007549 ngày 13/4/2021. Anh H đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt anh Hà Văn H và chị Đặng Thị Th. Anh H và chị Th có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 114/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 114/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về