TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 11/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 02 năm 2023, tại Toà án nhân dân huyện T, thành phố H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2023 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số 08/2024/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thanh H, sinh năm 19xx, nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn A, huyện A, thành phố H, có mặt.
- Bị đơn: Anh Bùi Văn V, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện T, thành phố H, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thanh H trình bày:
Chị H và anh Bùi Văn V kết hôn với nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đoàn Lập ngày 21/9/2022. Sau khi kết hôn, chị H sinh sống tại gia đình anh V ở thôn Đ, xã Đ, huyện T. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc được 01 năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống; một phần do anh V có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, vợ chồng thường xảy ra cãi nhau, hôn nhân không hạnh phúc. Từ tháng 5 năm 2023, chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở thị trấn An Lão, huyện An Lão sinh sống, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ, chị H yêu cầu được ly hôn anh V. Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là Bùi Nhật Khánh V, sinh ngày 18/4/2023. Khi ly hôn, chị H đề nghị Toà án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con, chị H tự thoả thuận với anh V, không yêu cầu Toà án giải quyết. Chị H không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản chung.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng, yêu cầu anh V giao nộp bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án và triệu tập anh V đến làm việc nhưng anh V không thực hiện.
Tài liệu xác minh tại địa phươn thể hiện: Anh V và chị H có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Thanh theo quy định pháp luật. Từ tháng 5 năm 2023, chị H đã về nhà mẹ đẻ sinh sống, anh chị sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Anh chị có 01 con chung; kể từ khi anh chị sống ly thân, con chung do chị H trực tiếp nuôi dưỡng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không có văn bản thể hiện việc thay đổi ý kiến.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc thu thập được chứng cứ, tài liệu, mở phiên họp, hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không giao nộp bản tự khai, vắng mặt tại phiên hòa giải, phiên tòa là thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Xử cho chị Nguyễn Thanh H được ly hôn anh Bùi Văn V; giao con Bùi Nhật Khánh V, sinh ngày 18/4/2023 cho chị H trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung, anh chị không yêu cầu giải quyết nên không đề nghị xem xét, giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Căn cứ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thanh H thì quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là Ly hôn, tranh chấp về nuôi con; anh Bùi Văn V là bị đơn, hiện đang cư trú tại: Thôn Đông Xuyên Ngoại, xã Đoàn Lập, huyện T, thành phố H nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn (anh V) đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không chấp hành triệu tập của Tòa án. Tòa án đã thực hiện cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ văn bản tố tụng cho anh V; tạo điều kiện cho anh V thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc anh V không có mặt theo giấy triệu tập, không giao nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án là tự tự mình từ bỏ các quyền và không chấp hành các nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[3] Bị đơn (anh V) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và các khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh V.
- Về nội dung:
[4] Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thanh H và anh Bùi Văn V được xác lập từ ngày 21 tháng 9 năm 2022 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Do mâu thuẫn căng thẳng, chị H bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, anh chị sống ly thân từ tháng 5 năm 2023 đến nay, không quan tâm đến nhau. Như vậy, có đủ căn cứ xác định, tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận, xử cho chị H được ly hôn anh V.
[4] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Bùi Nhật Khánh V, sinh ngày 18/4/2023. Từ khi anh chị sống ly thân đến nay, cháu V do chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt. Chị H hiện làm công nhân, có thu nhập ổn định; cháu V còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung, cần căn cứ các khoản 2, 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, chị H xin tự thoả thuận với anh V, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.
[5] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thanh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; các khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thanh H:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thanh H được ly hôn anh Bùi Văn V.
2. Về con chung: Giao con chung là Bùi Nhật Khánh V, sinh ngày 18/4/2023 cho chị Nguyễn Thanh H trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con do đương sự xin tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thanh H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp đủ 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0006343 ngày 16 tháng 10 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 11/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về