TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 11/2023/HNGĐ-PT NGÀY 09/08/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 09 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 09/2023/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” Do bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 55/2023/HNGĐ-ST ngày 05 tháng 05 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 12/2023/QĐPT-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Kim L, sinh năm: 199x Địa chỉ: Thôn N, xã N, thị xã N.H, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Mai Tấn H, sinh năm: 198x Địa chỉ: Tổ P, phường V, thành phố N.T, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Mai Tấn H
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Phan Thị Kim L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Mai Tấn H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Nha Trang năm 2014. Quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc do tính tình và quan điểm sống không hợp nhau trong cách chăm sóc, nuôi dạy con cái, vấn đề tài chính trong gia đình, mối quan hệ với họ hàng. Ông bà đã nhiều lần nói chuyện với nhau, cố hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không mang lại kết quả tốt hơn. Nay mâu thuẫn giữa vợ chồng bà ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn ông H.
Về con chung: Vợ chồng bà có hai con chung là Mai Yến T, sinh ngày 29/7/201x và Mai Yến N, sinh ngày 17/8/201x. Khi ly hôn bà xin nhận nuôi hai con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị đơn ông Mai Tấn H không đến Tòa án làm việc; không có lời khai.
Tại bản án sơ thẩm số: 55/2023/HNGĐ-ST ngày 05/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Phan Thị Kim L được ly hôn ông Mai Tấn H. Về con chung: Giao hai con chung là Mai Yến T, sinh ngày: 29/7/201x và Mai Yến N, sinh ngày: 17/8/201x cho bà Phan Thị Kim L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Mai Tấn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở; đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: Nguyên đơn bà Phan Thị Kim L không yêu cầu nên không xét. Về tài sản chung, nợ chung: Không xét. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 19/5/2023, bị đơn ông Mai Tấn H có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, cụ thể là không đồng ý quyết định giao hai con chung cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T; giao cháu N cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm và tại phiên tòa, nguyên đơn bà L không rút đơn khởi kiện; bị đơn ông H vẫn giữ yêu cầu kháng cáo. Ông H cho rằng từ giữa năm 2021 đến nay, cháu T ở với ông tại phường V, thành phố Nha Trang và đang học tại Trường Tiểu học V, thành phố Nha Trang; kết quả học tập lớp 2, lớp 3 của cháu T là tốt hơn kết quả học tập lớp 1 khi cháu Trang học ở Trường Tiểu học N, thị xã Ninh Hòa nên ông mong muốn tiếp tục được chăm sóc, nuôi con để đảm bảo cho con phát triển tốt về mọi mặt. Nguyên đơn bà L xác nhận việc cháu T đang ở với ông H, cũng như kết quả học tập của cháu T đúng như lời trình bày của ông H; tuy nhiên, bà không đồng ý với nội dung kháng cáo của bị đơn vì cháu T là con gái nên bà sẽ chăm sóc tốt hơn ông H và cháu T có nguyện vọng ở với bà. Bà muốn nuôi cả hai con và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa: Kể từ khi thụ lý vụ án phúc thẩm đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Tấn H; căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Ngày 19/5/2023, bị đơn ông H có đơn kháng cáo bản án số: 55/2023/HNGĐ-ST ngày 05/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang. Như vậy, đơn kháng cáo của ông H là hợp lệ theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Tòa án tiến hành xem xét, giải quyết đơn kháng cáo của ông H theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Ngày 02/4/2014, bà L và ông H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Nha Trang và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 52/2014 theo đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bà L được ly hôn ông H và các đương sự không có kháng cáo; Viện kiểm sát không có kháng nghị về vấn đề này nên nội dung này có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3]. Về nội dung kháng cáo của bị đơn ông Mai Tấn H, xét thấy:
[3.1]. Bà L và ông H đều xác định có hai con chung là cháu Mai Yến T, sinh ngày: 29/7/201x và Mai Yến N, sinh ngày: 17/8/201x. Từ năm 2014 đến giữa năm 2019, cháu T sống với bà L, ông H tại nhà cha mẹ của ông H ở phường V, thành phố Nha Trang; sau đó, cháu T sống với bà L tại nhà mẹ của bà L ở xã N, thị xã Ninh Hòa. Khoảng giữa năm 2021, cháu T về lại sống với ông H tại phường V, thành phố Nha Trang; còn cháu N từ khi được sinh ra thì sinh sống với bà L tại xã N, thị xã Ninh Hòa cho đến nay. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cháu T đang sống ổn định với bà L là không đúng thực tế.
[3.2]. Bà L và ông H đều xác định kết quả học tập của cháu T khi học lớp 1 tại Trường Tiểu học N là đạt học sinh khá; kết quả học tập lớp 2, lớp 3 tại Trường Tiểu học V lần lượt là đạt học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện, học sinh xuất sắc (có giấy xác nhận của Trường Tiểu học V). Như vậy, kết quả học tập của cháu T có chiều hướng tốt hơn.
[3.3]. Tại bản tự khai ngày 3/7/2023 của cháu T có chữ ký xác nhận của bà L và ông H, cháu T khai việc cháu muốn ở với mẹ là vì muốn hai chị em chơi chung với nhau; còn cháu đều thương cha mẹ và cháu cũng cảm nhận cả cha mẹ đều thương cháu. Hàng ngày, ông H là người đưa đón cháu đi học; cháu cảm thấy việc học tập ở đây vui vẻ.
[3.4]. Cả bà L và ông H đều có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con. Trên cơ sở xem xét toàn diện các mặt, nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho con và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sinh sống, học tập thực tế hiện nay, nên giao cháu T cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu N cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.
[3.5]. Bà L và ông H tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.
[3.6]. Từ những phân tích nêu trên, có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo của ông Mai Tấn H.
[3.7]. Những vấn đề khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên không xét.
[3.8]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn ông H được chấp nhận nên ông H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà ông H đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Căn cứ các Điều 26, 27, 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Tấn H về tranh chấp nuôi con; sửa một phần bản án sơ thẩm.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Phan Thị Kim L được ly hôn ông Mai Tấn H.
2. Về con chung, cấp dưỡng nuôi con:
2.1. Giao con chung Mai Yến T, sinh ngày: 29/7/201x cho ông Mai Tấn H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung Mai Yến N, sinh ngày: 17/8/201x cho bà Phan Thị Kim L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
2.2. Bà Phan Thị Kim L, ông Mai Tấn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
2.3. Bà Phan Thị Kim L, ông Mai Tấn H không cấp dưỡng nuôi con.
2.4. Quá trình nuôi con, bà Phan Thị Kim L, ông Mai Tấn H có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không ai yêu cầu giải quyết nên không xét.
4. Về án phí:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn bà Phan Thị Kim L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà bà Phan Thị Kim L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0010798 ngày 15/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Như vậy, bà Phan Thị Kim L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Mai Tấn H không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn lại cho ông Mai Tấn H 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm mà ông Mai Tấn H đã nộp nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0011696 ngày 26/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.
5. Quy định: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2023/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 11/2023/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về