Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 110/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 110/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 413/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2022/QĐXX - ST ngày 05 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự :

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị L - Sinh năm 1990 “ Có mặt” Nơi ĐKHKTT : Số nhà 270 Lý Nhân T, phường Đ, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Số nhà 01A/231 Đường Dương Đình N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Lê Hữu C - Sinh năm 1987 “ Vắng mặt” Trú tại: Số nhà 270 Lý Nhân T, phường Đ, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lê Hữu C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do UBND phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp vào ngày 06/11/2015. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, anh chị đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Hữu C.

Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu cháu Lê Bảo N sinh ngày 09/6/2016. Chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản công nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn là anh Lê Hữu C theo quy định của pháp luật nhưng anh C không đến Toà án để tự khai cũng như tham gia phiên hoà giải mặc dù đã nhận được các thông báo hợp lệ.

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhận được đơn xin xử vắng mặt của anh Lê Hữu C, theo nội dung đơn thể hiện: Do công việc làm ăn xa nên anh không thể trực tiếp tham gia vụ án được, vì vậy anh C xin được vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc của Tòa án và xin được vắng mặt trong tất cả các phiên xét xử của Tòa án. Đề nghị Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình chị L và anh C sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, và nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm được, chỉ biết là từ năm 2018 đến nay anh chị đã sống ly thân. Nay chị L có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Anh chị có một con chung, từ ngày ly thân chị L là người trực tiếp nuôi con, nếu anh chị ly hôn, việc giao con cho ai nuôi dưỡng và cấp dưỡng như thế nào đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Địa phương không nắm được anh chị có tài sản và công nợ gì nên không cung cấp cho Tòa án được.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án giải quyết: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đỗ Thị L. Xử cho chị Đỗ Thị L được ly hôn anh Lê Hữu C. Giao cháu Lê Bảo N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị L phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, anh C có đơn xin xử vắng mặt. Chị L đề nghị Tòa án tiến hành xét xử theo quy định. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh C là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị L và anh Lê Hữu C kết hôn với nhau cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa chị L và anh C đã đến mức trầm trọng, thực tế anh chị đã có thời gian sống ly thân khá lâu. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn chị C là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu cháu Lê Bảo N, sinh ngày 09/6/2016. Chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của chị L hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật, mặt khác anh C cũng không thể hiện ý chí có nguyện vọng trực tiếp nuôi con hay không, trong khi kể từ thời điểm anh chị ly thân đến nay, chị L là người đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Bảo N, do đó để đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho con chưa thành niên cần giao cháu N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị L được ly hôn anh Lê Hữu C Về con: Công nhận cháu Lê Bảo N, sinh ngày 09/6/2016 là con chung của chị L và anh C. Giao cháu Lê Bảo N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Hữu C có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Đỗ Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai số AA/2021/0002172 ngày 09/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị L đã nộp đủ án phí).

Chị Đỗ Thị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Lê Hữu C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 110/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:110/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về