Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 109/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 109/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 382/2022/ TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2022/ QĐXX- ST ngày 05 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự :

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị H - Sinh năm 1976 “Vắng mặt” Nơi ĐKHKTT: Số nhà 33/50 L, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Số nhà A2, D21, ngách 82, ngõ 11 D, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Bùi Ngọc P - Sinh năm 1971 “ Có mặt” Địa chỉ: Số nhà 33/50 L, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

Chị và anh Bùi Ngọc P tổ chức lễ cưới với nhau vào năm 1995, trên cơ sở tự nguyện, anh chị chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, luôn bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Ngọc P, do anh chị không có đăng ký kết hôn nên chị đề nghị Toà án không công nhận chị và anh P là vợ chồng.

Về con: Anh chị có 03 con chung là cháu Bùi Linh T, sinh ngày 08/11/1995, cháu Bùi Ngọc Đ, sinh ngày 21/02/2001 và cháu Bùi Ánh N, sinh ngày 31/10/2008. Cháu T và cháu Đ đã thành niên. Ly hôn chị Hiền đề nghị Tòa án giải quyết, giao cháu N cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn anh Bùi Ngọc P trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị H tổ chức lễ cưới với nhau vào năm 1995, trên cơ sở tự nguyện, anh chị chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, cả hai thường xuyên va chạm, cãi vả, bất đồng quan điểm, từ năm 2018 đến nay anh chị đã sống ly thân. Nay chị Hiền có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh P cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án không công nhận anh và chị H là vợ chồng.

Về con: Anh chị có 03 con chung là cháu Bùi Linh T, sinh ngày 08/11/1995, cháu Bùi Ngọc Đ, sinh ngày 21/02/2001 và cháu Bùi Ánh N, sinh ngày 31/10/2008. Cháu T và cháu Đ đã thành niên. Ly hôn anh P đề nghị Tòa án giải quyết, giao cháu N cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con Về tài sản, công nợ: Anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản thu thập chứng cứ địa phương xác nhận: Anh P và chị H chung sống với nhau ở địa phương đã lâu, nhưng từ năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn địa phương không nắm được chỉ biết hiện anh chị đã sống ly thân. Nay chị H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết. Hiện nay cháu N đang sống cùng anh P, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của các đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Xử không công nhận chị H và anh P là vợ chồng; Giao cháu Bùi Ánh N cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con, chị H phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị H có đơn xin xử vắng mặt. Bị đơn đề nghị Tòa án tiến hành xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để xét xử vắng mặt chị H là phù hợp quy định của pháp luật.

[2]Về hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Bùi Ngọc P chung sống với nhau, nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống chị H và anh P đều xác định có nhiều mâu thuẫn trầm trọng và anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Mặc dù cả hai anh chị đều thống nhất thuận tình ly hôn, tuy nhiên việc anh chị chung sống với nhau mà không có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Nay chị H có đơn xin ly hôn, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 53 Luật HNGĐ để xử không công nhận chị H và anh P là vợ chồng.

[3] Về con: Anh chị có 03 con chung là cháu Bùi Linh T, sinh ngày 08/11/1995, cháu Bùi Ngọc Đ, sinh ngày 21/02/2001 và cháu Bùi Ánh N, sinh ngày 31/10/2008. Cháu T và cháu Đ đã thành niên. Ly hôn chị H và anh P đề nghị Tòa án giải quyết, giao cháu N cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu nuôi con cũng như không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của anh P phù hợp với ý kiến của chị H, phù hợp với nguyện vọng được ở với Bố của cháu N nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, chị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 9; Điều 14; Điều 15 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Không công nhận chị Lê Thị H và anh Bùi Ngọc P là vợ chồng.

Về con: Công nhận cháu Bùi Linh T, sinh ngày 08/11/1995 ( đã thành niên), cháu Bùi Ngọc Đ, sinh ngày 21/02/2001 ( đã thành niên) và cháu Bùi Ánh N, sinh ngày 31/10/2008 là con chung của chị H và anh P. Giao cháu Bùi Ánh N cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Chị Lê Thị H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Chị H và anh P không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Lê Thị H phải nộp 300.000đ(Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai số AA/2021/0002101 ngày 20/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị H đã nộp đủ án phí).

Anh Bùi Ngọc P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Lê Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 109/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:109/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về