Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 1026/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 1026/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 09 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 744/2022/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 05 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/8/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 221/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/8/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Thôn C xã C, huyện P, tỉnh Bình Định (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Nguyễn Đình C, sinh năm: 1971; Địa chỉ: 604 T, TP. Q, tỉnh Bình Định (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/05/2022 và các lời trình bày trong quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T trình bày: Chị và anh C đăng ký kết hôn ngày 20/6/2018 tại UBND xã C, huyện P, tỉnh Bình Định trên tinh thần tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường đến năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính tình, quan điểm sống khác biệt, không có tiếng nói chung. Ngoài ra, anh C không quan tâm đến vợ con, không đóng góp kinh tế để chị chăm lo gia đình. Chị không chịu nổi nên đưa con về nhà cha mẹ ruột ở xã C, huyện P, tỉnh Bình Định ở, vợ chồng sống ly thân từ năm 2020 đến nay, anh C vẫn không quan tâm đến chị và con chung. Nay chị không còn tình cảm với anh C nên xin được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh C có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 20/10/2017, sức khỏe bình thường, hiện đang sống với chị. Ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn anh Nguyễn Đình C: không nộp bản tự khai và vắng mặt không có lý do trong tất cả các buổi làm việc và tại phiên tòa sơ thẩm mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh C vẫn cố tình vắng mặt không có lý do.

* Ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn:

Về tuân theo pháp luật tố tụng: từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ và đúng các trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70,71 BLTTDS. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70,72 BLTTDS.

Về giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu được nuôi con chung của nguyên đơn có căn cứ pháp luật phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 và Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Chị T và anh C kết hôn ngày 20/6/2018 tại UBND xã C, huyện P , tỉnh Bình Định nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Anh C có địa chỉ ở 604 T, TP. Q, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định theo quy định tại khoản 1 điều 28; điều 35 và điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ đối với bị đơn thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào yêu cầu khởi kiện, lời trình bày của nguyên đơn và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. [3]. Về nội dung vụ án:

Theo chị T trình bày sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh C không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm đến vợ con và không đóng góp kinh tế để chị chăm lo cho gia đình. Từ năm 2020 đến nay chị và anh C sống ly thân, cả hai đã không còn quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên xin được ly hôn với anh C.

Hội đồng xét xử xét thấy, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, quan tâm, tôn trọng và chăm sóc, giúp đỡ nhau, nhưng qua lời trình bày của chị T thì giữa chị và anh C đã xảy ra mâu thuẫn, giữa hai bên không tìm được tiếng nói chung nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, cả hai đã không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc nhau. Qúa trình giải quyết vụ án mặc dù Tòa đã triệu tập nhiều lần nhưng anh C không đến Tòa làm việc, chứng tỏ anh C không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, nên Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị T xin được ly hôn anh C là phù hợp theo quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Trong quá trình chung sống anh chị có 01 người con chung tên: Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 20/10/2017, sức khỏe bình thường, hiện cháu đang sống với chị; Nếu ly hôn chị T có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi cháu H, không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy: Từ khi chị T và anh C ly thân đến nay cháu H sống với chị T, đã quen với nề nếp sinh hoạt và sự chăm sóc của chị T, mặt khác cháu H đang ở lứa tuổi rất cần sự quan tâm chăm sóc chu đáo của người mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu H, Hội đồng xét xử giao chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hòa.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về tài sản chung: chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14. Chị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình quy định pháp luật.

Ý kiến của đại diện viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Tuyên xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T được ly hôn anh Nguyễn Đình C.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 20/10/2017 cho chị Nguyễn Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng.

- Việc cấp dưỡng nuôi con: chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên có quyền xin thay đổi nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không bên nào được ngăn cản.

3.Về tài sản chung: chị T không yêu cầu Tòa giải quyết.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0003961 ngày 24/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn (Chị T đã nộp xong).

Quyền kháng cáo: Chị T, anh C vắng mặt tại phiên toà nên thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 1026/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1026/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về