TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THIỆU HÓA, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 09/2024/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ LY HÔN TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 157/2023/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2023 về việc Ly hôn tranh chấp về nuôi con. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/QĐST-HNGĐ ngày 27/02/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Th G, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Bị đơn: Anh Hàn Duyên T, sinh năm 1978 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Th G, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Tại phiên tòa vắng mặt chị H, anh T. Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 04 tháng 10 năm 2023, bản tự khai ngày 11 tháng 10 năm 2023, cũng như quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
Chị và anh Hàn Duyên T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn UBND xã Th G, huyện Thiệu Hóa ngày 20/3/2018. Sau khi kết hôn về chung sống với nhau, vợ chồng mới thấy tính tình không hợp, có nhiều bất đồng trong cuộc sống. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cải nhau, anh T ham chơi cờ bạc, không tôn trọng vợ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hàn Duyên T.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản và công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 29 tháng 12 năm 2023 anh Hàn Duyên T trình bày:
Anh và và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th G, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường, cho đến khoảng tháng 10 năm 2023 anh T có chơi bài vui uống nước với mấy anh hàng xóm thì chị H biết, chị H nói qua nói lại nên vợ chồng mâu thuẫn và chị H bỏ về Thiệu Long ở, sau khi chị H về Thiệu Long ở anh T vẫn thường xuyên lên thăm vợ và con, khuyên giải chị H đưa con về. Hiện tại anh T xét thấy vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, anh vẫn còn tình cảm với chị H nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng anh được đoàn tụ.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018. Nếu vợ chồng ly hôn anh T tôn trọng quyết định của chị H, để cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa vắng mặt chị H, vắng mặt anh T. Chị H đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Trong đơn xin xét xử vắng mặt chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh Hàn Duyên T, về con chung chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018, chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chị H không yêu cầu giải quyết.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thiệu Hóa có quan điểm:
Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa xét xử, thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thiệu Hóa không có yêu cầu hoặc kiến nghị gì cần khắc phục vi phạm về tố tụng.
Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 39; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Khoản 1, Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Đề nghị HĐXX xử: Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Hàn Duyên T.
Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng . Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1].Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Hàn Duyên T, anh T có hộ khẩu và nơi cứ trú tại Thôn Đ, xã Th G, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nên căn cứ vào khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Anh Hàn Duyên T và chị Nguyễn Thị H đã được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó căn cứ vào điển b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị H, anh T.
[2].Về nội dung:
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Hàn Duyên T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th G, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 20/3/2018. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được đến năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau về tính tình và bất đồng quan điểm sống, ngoài ra có lần anh T chơi cờ bạc vui với hàng xóm, nên vợ chồng xảy ra va chạm cải vã nhau. Quá trình giải quyết vụ án anh T có nguyện vọng vợ chồng về đoàn tụ, tuy nhiên khi Tòa án tiến hành hòa giải thì anh T không đến Tòa án làm việc. Quá trình giải quyết vụ án cũng như trong đơn xin xét xử vắng mặt chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh T. Tại biên bản xác minh, chính quyền địa phương cho biết địa phương không thấy vợ chồng anh T và chị H đánh nhau, nhưng có một vài lần anh T đánh bài phỏm vui với hàng xóm chị H biết nên vợ chồng mâu thuẫn. Sau đó chị H đưa con về Thiệu Long sinh sống. Như vậy chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 điều 56 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị H được ly hôn anh T là phù hợp.
- Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị H và anh T đều thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018. Tại đơn xin ly hôn và bản tự khai chị H đề nghị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Tại biên bản lấy lời khai, anh T cũng đồng ý theo nguyện vọng của chị H, giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Như vậy căn cứ vào nguyện vọng của các bên, Hội đồng xét xử xét thấy giao cháu Hàn T D cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chưa thành niên là trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ, song quá trình giải quyết vụ án và trong đơn xin xét xử vắng mặt Hương không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Việc không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung của chị H là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy thấy giao cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp.
[3].Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Từ các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 39; khoản 1 điều 228; điều 271; điều 273; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Khoản 1, Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, Điều 9; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Hàn Duyên T.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Hàn T D, sinh ngày 10/4/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng . Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu tiền án phí sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2022/0000624 ngày 11/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thiệu Hóa (chị H đã nộp đủ án phí).
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị H, Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn tranh chấp nuôi con số 09/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 09/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về