TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 09/2024/HNGĐ-ST NGÀY 20/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 20 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh S xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 190/2023/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 11 năm 2023 về ly hôn và tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H; Địa chỉ: Số 128A/9, khu phố N, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Phan Thanh Ph; Địa chỉ: ấp P, xã M, huyện M, tỉnh S (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 10 năm 2023 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phan Thanh Ph có tổ chức tiệc cưới vào năm 2012 và đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Phước, huyện T, tỉnh S vào ngày 08 tháng 8 năm 2014. Hôn nhân của chị H, anh Ph được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc. Thời gian đầu vợ chồng chị H, anh Ph chung sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2022 trong cuộc sống vợ chồng của anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, dù đã hàn gắn tình cảm nhiều lần nhưng đều không thành và anh chị đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2022 đến nay, khi sống ly thân anh chị không ai quan tâm, chăm sóc cho ai. Chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Ph không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Phan Thanh Ph.
Về con chung: Chị H tự khai trong thời gian chung sống, chị H, anh Ph có 02 (hai) người con chung là Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P Th (nam, sinh ngày 09-8-2015), hiện cháu P, cháu Th đang sống với anh Ph tại địa chỉ ấp P, xã M, huyện M, tỉnh S.
Sau khi ly hôn chị H đồng ý giao hai cháu P, Th cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu cháu P, cháu Th đủ 18 (mười tám) tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị H không cấp dưỡng nuôi cháu Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P Th (nam, sinh ngày 09-8 -2015).
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị H tự khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Đối với bị đơn anh Phan Thanh Ph: Sau khi thụ lý, Tòa án đã tóm tắt nội dung đơn khởi kiện và các yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H tại Thông báo thụ lý vụ án số: 407/TB-TLVA, ngày 01 tháng 11 năm 2023 và đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh Phan Thanh Ph, cũng như đã triệu tập hợp lệ anh Ph đến dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hai lần nhưng anh Ph đều không đến dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Sau đó Tòa án đã Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh Ph nhưng anh Ph không gửi văn bản ghi ý kiến của anh Ph đối với yêu cầu khởi kiện nêu trên của chị Nguyễn Thị H.
Tại Tờ tường trình của cháu Phan Nguyễn P T và cháu Phan Thanh P lập ngày 28 tháng 11 năm 2023, cháu T, cháu P trình bày: Hiện nay các cháu đang sống với cha tại địa chỉ ấp P, xã M, huyện M, tỉnh S, hiện nay các cháu đang sống với cha rất tốt, do đó các cháu yêu cầu được tiếp tục sống với cha là Phan Thanh Ph.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh S trình bày ý kiến như sau:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung vụ án: Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H, về việc chị H yêu cầu ly hôn với anh Ph và chị H yêu cầu giao 02 (hai) con chung Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P Th (nam, sinh ngày 09-8 -2015) cho anh Phan Thanh Ph tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu cháu P, cháu Th đủ 18 (mười tám) tuổi và chị H không cấp dưỡng nuôi con. Còn về tài sản chung, nợ chung chị H tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 22 tháng 01 năm 2024); Bị đơn anh Phan Thanh Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng cả hai lần đều vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1,3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
[1.2] Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn: Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh S nhận được đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo do nguyên đơn chị Nguyễn Thị H nộp trực tiếp tại Tòa án. Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án thực hiện thủ tục nhận, xử lý đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H và thụ lý vụ án đúng quy định tại Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị H và bị đơn anh Phan Thanh Ph, có nơi cư trú tại ấp P, xã M, huyện M, tỉnh S. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh S thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phan Thanh Ph xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đủ điều kiện kết hôn. Do đó việc chị Nguyễn Thị H và anh Phan Thanh Ph tiến đến hôn nhân và được Ủy ban nhân dân xã Mỹ Phước, huyện T, tỉnh S cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18 tháng 8 năm 2014 là hoàn toàn đúng theo đúng quy định pháp luật cho nên được pháp luật công nhận đây là hôn nhân hợp pháp và cần giải quyết hậu quả phát sinh từ cuộc hôn nhân này.
Trong quá trình chung sống theo chị H trình bày do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã và không tìm được tiếng nói chung trong đời sống hôn nhân, anh Ph không quan tâm chăm sóc cho gia đình. Chị H và anh Ph đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2022 đến nay, khi xảy ra mâu thuẫn chị H đã nhiều lần hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được và vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Hiện nay chị H và anh Ph không còn chung sống với nhau như vợ chồng, anh chị đều có công việc riêng và có cuộc sống riêng không ai quan tâm, chăm sóc cho ai. Theo đơn khởi kiện cũng như trong quá trình giải quyết vụ án chị H vẫn cương quyết xin ly hôn với anh Phan Thanh Ph.
Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thuỷ, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Đối chiếu với quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh Phthì hiện nay, chị H, anh Phsống ly thân, mỗi người đều có cuộc sống riêng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng thực trạng mâu thuẫn giữa chị H, anh Ph đã đến mức trầm trọng, hiện nay anh chị không còn sống chung với nhau như vợ chồng, anh chị không còn thương yêu và chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H.
[2.2] Về con chung: Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị H tiếp giao hai con chung tên Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P Th (nam, sinh ngày 09-8 -2015) cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi cháu P, cháu Th đủ 18 (mười tám) tuổi. Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Thấy rằng, từ khi chị H, anh Phsống ly thân thì anh Ph là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu P, cháu Th thì cháu P, cháu Th được đi học, về tâm sinh lý phát triển bình thường.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử thấy rằng nhằm để đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, ổn định cuộc sống cũng như tâm sinh lý của Phan Thanh P, cháu Phan Nguyễn P Th nên việc giao cháu P, cháu Th cho anh Phan Thanh Ph trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Phan Thanh P, cháu Phan Nguyễn P Th cho anh Ph tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu P, cháu Th đủ 18 (mười tám) tuổi. Chị Nguyễn Thị H được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này, theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Đáng lẽ ra, chị H là người không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, nhưng trong quá trình giải quyết vụ anh Ph không có văn bản ý kiến về vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H tự khai không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
[2.5] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H tự khai không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên như đã nhận định nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Nguyên đơn chị Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1,3 Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Phan Thanh Ph.
2. Về con chung:
2.1 Giao con chung tên Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P T (nam, sinh ngày 09-8 -2015) cho anh Phan Thanh Ph trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P T (nam, sinh ngày 09-8 -2015) đủ 18 (mười tám) tuổi.
2.2 Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị H không cấp dưỡng nuôi cháu Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P T (nam, sinh ngày 09-8 -2015).
2.3 Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung tên Phan Thanh P (nam, sinh ngày 22-8-2013) và Phan Nguyễn P T (nam, sinh ngày 09-8 -2015), anh Phan Thanh Ph cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở. Chị Nguyễn Thị H không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H tự khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H tự khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010821 ngày 01 tháng 11 năm 2023, chị Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
5. Nguyên đơn; bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh S xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung), thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 09/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về