Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 44/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2021 về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số: 06/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2021, giữa:

1/ Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mỹ C, sinh năm 1997; Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, có mặt tại phiên tòa.

2/ Bị đơn: Anh Đỗ Tiến S, sinh năm 1997; Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/6/2021 và tại phiên tòa chị Trần Thị Mỹ C trình bày:

 Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị C và anh S là vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Trong thời gian chung sống anh S mê cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, không có trách nhiệm với gia đình và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hiện tại chị C cho rằng không còn tình cảm vợ chồng với anh S, không thể duy trì mối quan hệ hôn nhân, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị C được ly hôn với anh S.

Về con chung: Chị C và anh S có 02 người con chung: Đỗ Trần Bảo N, sinh ngày 06/6/2017 và Đỗ Trần Hải Đ, sinh ngày 06/5/2019. Sau khi ly hôn chị C có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khai không có, không yêu cầu Tòa án giải Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp gồm: 01 giấy trích lục kết hôn;

01 giấy CMND, 01 căn cước công dân mang tên Trần Thị Mỹ C; 01 sổ hộ khẩu; 02 giấy khai sinh của con; 01 bản tự khai của chị C ngày 20/7/2021.

Các tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp: Không có.

Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành thu thập, xác minh: Biên bản xác minh ngày 19/8/2021.

Trong quá trình giải quyết vụ án do anh S không tham gia tố tụng nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đề nghị giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56;

Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết vụ án.

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Mỹ C đối với anh Đỗ Tiến S.

Về con chung: Giao con là cháu Đỗ Trần Bảo N, sinh ngày 06/6/2017 và Đỗ Trần Hải Đ, sinh ngày 06/5/2019, cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Chị C phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, cùng với các tài liệu chứng cứ được chủ tọa công bố tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị Mỹ C có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai giải quyết ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh Đỗ Tiến S. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập anh S tham gia tố tụng nhiều lần, nhưng anh S không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Do đó Tòa án áp dụng quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị C và anh S là vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Xét thấy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, nhưng trong cuộc sống giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh S mê cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, không có trách nhiệm với gia đình. Hiện tại chị C cho rằng không còn tình cảm vợ chồng với anh S, không thể duy trì mối quan hệ hôn nhân, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C đối với anh S.

[3] Về con chung: Chị C và anh S có 02 người con Là cháu Đỗ Trần Bảo N, sinh ngày 06/6/2017 và Đỗ Trần Hải Đ, sinh ngày 06/5/2019, hiện tại cháu N và Đ đang sống chung với chị C, sau khi ly hôn chị C có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa chị C trình bày hiện tại mức thu nhập bình quân 6.000.000đồng/tháng, chị C cam đoan đủ điều kiện nuôi con, đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Do đó, giao con là cháu N và cháu Đ cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Anh S không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị C phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82;

Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

[1] Về Hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Mỹ C. Chị Trần Thị Mỹ C ly hôn với anh Đỗ Tiến S.

[2] Về con chung: Giao con là cháu Đỗ Trần Bảo N, sinh ngày 06/6/2017 và Đỗ Trần Hải Đ, sinh ngày 06/5/2019 cho chị Trần Thị Mỹ C trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Anh Đỗ Tiến S không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con, có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con, có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ của họ. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc,nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Khai không có, không yêu cầu Tòa án giải [4] Về án phí: Chị Trần Thị Mỹ C phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) mà chị C đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007021 ngày 15/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

[5] Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6] Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 10/11/2021. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về