Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 08/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 446/2023/TLST – HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2024, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2024/QĐST – HNGĐ ngày 29/01/2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn Ông Nguyễn Quốc H, sinh năm 1977.

Địa chỉ thường trú: Số 57, đường Bình Lục – L Phú, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn : Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978.

Địa chỉ thường trú: Số 57, đường Bình Lục – L Phú, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ cứ trú hiện nay: ấp 2, xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

(Ông Nguyễn Quốc H có đơn xin xét xử vắng mặt; Bà Nguyễn Thị L vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Quốc H và Bà Nguyễn Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 84/2000 ngày 25/12/2000 vào sổ quyền số 01/2000.

Về mặt tình cảm, thời gian đầu cả hai sinh sống hòa thuận, hạnh phúc cho đến khoảng tháng 02/2023 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải vả nhau, nguyên nhân do đam mê vào cờ bạc, nợ nần, nhiều lần ông H phải đứng ra trả nợ, vì không muốn hạnh phúc gia đình đổ vỡ, con cái không có đầy đủ cha, mẹ nên ông H và bà L đã nhiều lần ngồi lại, tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không có kết quả, từ đó bất đồng quan điểm sống, cả hai đã từ lâu không còn tiếng nói chung; nên cũng sống ly thân với nhau từ đó; bà L bỏ về nhà mẹ ruột ở Bình Lợi sinh sống.

Nay nhận thấy tình cảm với chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với bà Nguyễn Thị L.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Phúc H, sinh ngày 28/4/2006 và cháu Nguyễn Trúc L, sinh ngày 02/12/2016. Sau khi ly hôn, ông H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu L, còn cháu H đã đủ tuổi trưởng thành, có khả năng lao động nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời cũng không yêu cầu bà L phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về điều kiện để yêu cầu nuôi cháu L ông cam kết đủ điều kiện vì hiện tại ông đang có công việc ổn định và có nhà cửa đầy đủ để chăm sóc và lo lắng cho con cái.

Về tài sản chung: Ông H khai hai vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông H khai hai vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Lời khai của bị đơn Bà Nguyễn Thị L: Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp cũng như địa chỉ cư trú theo kết quả trả lời xác minh về thông tin cư trú của chính quyền địa phương, nhưng bà L vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho ông Nguyễn Quốc H được ly hôn với bà Nguyễn Thị L vì từ khi kết hôn đã phát sinh mâu thuẫn, dù đã cố gắng khắc phục để sống chung nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được.

Về con chung: Ông H và bà L có 02 con chung là cháu Nguyễn Phúc H, sinh ngày 28/4/2006 và cháu Nguyễn Trúc L, sinh ngày 02/12/2016. Do cháu Nguyễn Trúc L đã có bản tự khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở với ông H, đồng thời ông H cũng thể hiện đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt cháu L; do đó chấp nhận cho yêu cầu của ông L được nuôi dưỡng cháu L; đối với cháu Nguyễn Phúc H do đã đủ tuổi trưởng thành và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết..

Về cấp dưỡng, tạm thời bà Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông H không yêu cầu.

Về tài sản chung: Khi ly hôn, ông Nguyễn Quốc H khai hai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.

Về nợ chung: Khi ly hôn, ông Nguyễn Quốc H xác định cả hai vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.

Tuy nhiên, do bà Nguyễn Thị L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà L, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: ông Nguyễn Quốc H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

 [1.1]. Về quan hệ tranh chấp: ông Nguyễn Quốc H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bà Nguyễn Thị L, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết: Theo địa chỉ trong đơn khởi kiện và biên bản xác minh tại Công an xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu cung cấp thông tin bà Nguyễn Thị L hiện đang sinh sống thường xuyên tại địa chỉ: ấp 2, xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

[1.3]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn xin xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

[2.1]. Ông Nguyễn Quốc H và Bà Nguyễn Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 84/2000 ngày 25/12/2000 vào sổ quyền số 01/2000, nên xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[2.2]. Quá trình tố tụng vụ án ông L xác định giữa ông và bà L phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Về mặt tình cảm, thời gian đầu cả hai sinh sống hòa thuận, hạnh phúc cho đến khoảng tháng 02/2023 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải vả nhau, nguyên nhân do đam mê vào cờ bạc, nợ nần, nhiều lần ông H phải đứng ra trả nợ, vì không muốn hạnh phúc gia đình đổ vỡ, con cái không có đầy đủ cha, mẹ nên ông H và bà Loong đã nhiều lần ngồi lại, tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không có kết quả, từ đó bất đồng quan điểm sống, cả hai đã từ lâu không còn tiếng nói chung; nên cũng sống ly thân với nhau từ đó; bà L bỏ về nhà mẹ ruột ở Bình Lợi sinh sống. Căn cứ vào việc cả hai đã sống ly thân nhiều năm, không có sự tương tác trong quan hệ hôn nhân, không có trách nhiệm xây dựng hạnh phúc gia đình cùng nhau, mặc ai người nấy sống, điều đó thể hiện lời trình bày của ông H là có căn cứ.

Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa ông H và bà L đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng theo Điều 19 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Xét thấy, hôn nhân giữa cả hai đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xét chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Quốc H xin ly hôn với bà Nguyễn Thị L là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[3]. Về con chung: Ông H và bà L có 02 con chung là cháu Nguyễn Phúc H, sinh ngày 28/4/2006 và cháu Nguyễn Trúc L, sinh ngày 02/12/2016. Ly hôn Ông H có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu L. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Do cháu Trúc L có bản tự khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở với ông H, đồng thời ông H cũng thể hiện đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt đối với cháu L; bà L không lên Tòa làm việc, không ghi nhận được nguyện vọng của bà L về việc nuôi con chung, nhưng để đảm bảo cuộc sống của cháu L được ổn định, việc xem xét để ai trực tiếp nuôi con cần đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu L cho ông H được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Cháu H đã trưởng thành và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Bà Nguyễn Thị L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông Hải, thực hiện các quyền, nghĩa vụ này. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: ông Nguyễn Quốc H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với bà Nguyễn Thị L đồng thời bà L cũng không lên Tòa làm việc và không ghi nhận được nguyện vọng của bà L nên không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Quốc H khai về tài sản chung hai vợ chồng không có; Về nợ chung, cũng khai không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do bà Nguyễn Thị L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà L, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xát giải quyết.

[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6]. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông Nguyễn Quốc H phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83; khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 8 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Quốc H về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn bà Nguyễn Thị L.

Thị L.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: ông Nguyễn Quốc H được ly hôn với bà Nguyễn 1.2. Về con chung: Giao cháu cháu Nguyễn Trúc L, sinh ngày 02/12/2016 cho ông Nguyễn Quốc H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm thời bà Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, bà Nguyễn Thị L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trợ. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu Nguyễn phúc H đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét giải quyết.

1.3. Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

1.4. Về nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

2. Về án phí: ông Nguyễn Quốc H phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0005630 ngày 01/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu. Ông Nguyễn Quốc H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về