TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 447/2023/TLST – HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2024, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2024/QĐST – HNGĐ ngày 29/01/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn Bà Trần Thị Ngọc Y, sinh năm 1990.
Địa chỉ thường trú: tổ 8, ấp 6, xã T, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn : Ông Trần Văn Th, sinh năm 1990.
Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
(Bà Trần Thị Ngọc Y có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Trần Văn Th vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Y trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Văn Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường xã B, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 07/2016 ngày 04/12/2016 . Về mặt tình cảm, từ giai đoạn sống chung cả hai đã liên tục phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Th là người không có trách Nhệm, không có sự chia sẻ trong cuộc sống gia đình đồng thời hay gây gỗ vô cớ dẫn đến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, thiếu sự tôn trọng đối với nhau, vợ chống cũng vì thế mà thường xuyên bất đồng quan điểm sống, cả hai đã từ lâu không còn tiếng nói chung; vì không muốn hạnh phúc đổ vỡ nên Nhều lần bà đã tạo điều kiện để cả hai hòa giải, hàn gắn tình cảm với nhau nhưng không thành. Vào năm 2016, khi đang mang thai bà đã nộp đơn ly hôn lên Tòa án một lần nhưng được để xuất hòa giải vì con. Tuy Nhên, từ khi bà mang thai cho đến khi sinh con ra, ông Th vẫn giữ nguyên thái độ vô trách Nhệm như ban đầu, đỉnh điểm đến năm 2018 thì ông Th bỏ về nhà ở B sinh sống và cắt đứt mọi liên lạc với bà, cũng như không có bất kì sự chăm lo, thăm nom nào với con chung.
Nay nhận thấy tình cảm với chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Trần Văn Th.
Về con chung: Có 01 con chung là cháu Trần Hoàng Nh, sinh ngày 15/11/2016. Sau khi ly hôn, bà Y yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nh đồng thời không yêu cầu ông Th phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về điều kiện để yêu cầu nuôi cháu Nh bà cam kết bà đủ điều kiện vì hiện tại bà đang có công việc ổn định tại Công ty Changsin với mức lương được trả là 10 triệu đồng/1 tháng.
Về tài sản chung: Bà Trần Thị Ngọc Y khai hai vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà Trần Thị Ngọc Y khai hai vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Lời khai của bị đơn ông Trần Văn Th: Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp cũng như địa chỉ cư trú theo kết quả trả lời xác minh về thông tin cư trú của chính quyền địa phương, nhưng ông Th vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.
- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu:
Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.
Về việc giải quyết tranh chấp: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Trần Thị Ngọc Y được ly hôn với ông Trần Văn Th vì từ khi kết hôn đã phát sinh mâu thuẫn, dù đã cố gắng khắc phục để sống chung nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được.
Về con chung: Bà Y và ông Th trong thời kỳ hôn nhân có 01 con chung là cháu Trần Hoàng Nh, sinh ngày 15/11/2016. Do cháu Trần Hoàng Nh có bản tự khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở với bà Y, đồng thời bà Y cũng thể hiện đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt cháu Nh; do đó chấp nhận cho yêu cầu của bà Trần Thị Ngọc Y được nuôi dưỡng cháu Trần Hoàng Nh.
Về cấp dưỡng, tạm thời ông Trần Văn Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Y không yêu cầu.
Về tài sản chung: Khi ly hôn, bà Trần Thị Ngọc Y khai hai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.
Về nợ chung: Khi ly hôn, bà Trần Thị Ngọc Y xác định cả hai vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.
Tuy Nhên, do ông Trần Văn Th vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông Th, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.
Về án phí: Bà Trần Thị Ngọc Y phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị Ngọc Y khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Trần Văn Th, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết: Theo địa chỉ trong đơn khởi kiện và biên bản xác minh tại Công an xã B, huyện Vĩnh Cửu cung cấp thông tin ông Trần Văn Th hiện đang sinh sống thường xuyên tại địa chỉ: ấp B, xã B, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
[1.3]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn xin xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
[2.1]. Bà Trần Thị Ngọc Y và ông Trần Văn Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường xã B, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 07/2016 ngày 04/12/2016, nên xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
[2.2]. Quá trình tố tụng vụ án bà Y xác định giữa bà và ông Th phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Về mặt tình cảm, từ giai đoạn sống chung cả hai đã liên tục phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Th là người không có trách Nhệm, không có sự chia sẻ trong cuộc sống gia đình đồng thời hay gây gỗ vô cớ dẫn đến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, thiếu sự tôn trọng đối với nhau, vợ chống cũng vì thế mà thường xuyên bất đồng quan điểm sống, cả hai đã từ lâu không còn tiếng nói chung; vì không muốn hạnh phúc đổ vỡ nên Nhều lần bà đã tạo điều kiện để cả hai hòa giải, hàn gắn tình cảm với nhau nhưng không thành. Vào năm 2016, khi đang mang thai bà đã nộp đơn ly hôn lên Tòa án một lần nhưng được để xuất hòa giải vì con. Tuy Nhên, từ khi bà mang thai cho đến khi sinh con ra, ông Th vẫn giữ nguyên thái độ vô trách Nhệm như ban đầu, đỉnh điểm đến năm 2018 thì ông Th bỏ về nhà ở B sinh sống và cắt đứt mọi liên lạc với bà, cũng như không có bất kì sự chăm lo, thăm nom nào với con chung. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành hòa giải nhưng ông Th vẫn cố tình không đến Tòa án để làm việc, như vậy thể hiện phía bị đơn không còn quan tâm đến hôn nhân với bà Y. Mặt khác, qua xác minh tình trạng hôn nhân giữa hai vợ chồng tại nơi cả hai đã từng cư trú, địa phương xác định cả hai có đăng ký kết hôn tại địa phương, nhưng không nắm được mâu thuẫn do các bên không khai báo. Tuy Nhên, căn cứ vào việc cả hai đã sống ly thân Nhều năm, không có sự tương tác trong quan hệ hôn nhân, không có trách Nhệm xây dựng hạnh phúc gia đình cùng nhau, mặc ai người nấy sống, điều đó thể hiện lời trình bày của bà Y là có căn cứ.
Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà Y và ông Th đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng theo Điều 19 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Xét thấy, hôn nhân giữa cả hai đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xét chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Ngọc Y xin ly hôn với ông Trần Văn Th là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[3]. Về con chung: Bà Trần Thị Ngọc Y và ông Trần Văn Th trong thời kỳ hôn nhân có 01 con chung là cháu Trần Hoàng Nh, sinh ngày 15/11/2016. Ly hôn bà Y có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Nh. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “2. Vợ, chồng thỏa Th về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa Th được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Do cháu Trần Hoàng Nh có bản tự khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở với bà Y, đồng thời bà Y cũng thể hiện đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt đối với cháu Nh; Ông Th không lên Tòa làm việc, không ghi nhận được nguyện vọng của ông Th về việc nuôi con chung, nhưng để đảm bảo cuộc sống của cháu Nh được ổn định, việc xem xét để ai trực tiếp nuôi con cần đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Nh cho bà Y được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ông Trần Văn Th không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông Hải, thực hiện các quyền, nghĩa vụ này. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Trần Thị Ngọc Y không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Trần Văn Th đồng thời ông Th cũng không lên Tòa làm việc và không ghi nhận được nguyện vọng của Th nên không xem xét giải quyết.
[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Ngọc Y khai về tài sản chung hai vợ chồng không có; Về nợ chung, cũng khai không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy Nhên. Do ông Trần Văn Th vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông Th, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xát giải quyết.
[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6]. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Trần Thị Ngọc Y phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83; khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 8 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Y về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Trần Văn Th.
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Ngọc Y được ly hôn với ông Trần Văn Th.
1.2. Về con chung: Giao cháu Trần Hoàng Nh, sinh ngày 15/11/2016 cho bà Trần Thị Ngọc Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm thời ông Trần Văn Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, ông Trần Văn Th không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trợ. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
1.3. Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.
1.4. Về nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.
2. Về án phí: Bà Trần Thị Ngọc Y phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0005637 ngày 06/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu. Bà Trần Thị Ngọc Y đã nộp đủ án phí.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả Th thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 07/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về