Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 8 năm 2022 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Trần Thị T, sinh năm 1990; địa chỉ: thôn B, xã Cam Nghĩa, huyện L, tỉnh Quảng Trị; có mặt;

- Bị đơn: anh Trương Vũ H, sinh năm 1989; địa chỉ: thôn P, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị (có đơn xin giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14 tháng 3 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Chị Trần Thị T và anh Trương Vũ H kết hôn với nhau vào năm 2012, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị. Trong khoảng thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống. Từ năm 2018, chị T đã đưa con về nhà ngoại tại thôn B, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị sinh sống cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, chị Thúy xác định tình cảm vợ chồng không còn và có nguyện vọng là xin được ly hôn với anh Trương Vũ H.

- Về con chung: có 01 con chung là cháu Trương Thảo V, sinh ngày 04/8/2012. Khi ly hôn, chị T có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản trình bày ý kiến ngày 04/7/2022, bị đơn anh Trương Vũ H trình bày:

Chị Trần Thị T và anh Trương Vũ H kết hôn với nhau vào năm 2012, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị. Quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không tìm thấy tiếng nói chung trong cuộc sống. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018, chị T đưa con về sống cùng bố chị T tại thôn B, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị sinh sống cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Anh H xác định không còn tình cảm vợ chồng nên đồng ý ly hôn với chị T.

- Về con chung: có 01 con chung là cháu Trương Thảo V, sinh ngày 04/8/2012. Khi ly hôn, anh H có nguyện vọng giao con cho chị T nuôi dưỡng;

anh H không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử của Thẩm phán, Thư ký và của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền thụ lý vụ án; xác định tư cách tham gia tố tụng; tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng quy định. Trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát và đương sự đúng quy định tại Điều 195, 196 BLTTDS. Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại Điều 203 BLTTDS. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định tại Điều 51 BLTTDS.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn:

Trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình kể từ khi gửi đơn đến Tòa án cho đến phiên tòa hôm nay. Nội dung đơn khởi kiện đầy đủ, đúng đối tượng. Trong quá trình giải quyết vụ án đã giao nộp chứng cứ cho Tòa án; tham gia đầy đủ các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa, chấp hành đầy đủ nội quy của phiên tòa. Nguyên đơn đã chấp hành đúng, đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình đúng được quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS.

Việc chấp hành pháp luật của bị đơn:

Trong quá trình tham gia tố tụng bị đơn đã nhận đầy đủ thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và Quyết định đưa vụ án ra xét xử; có đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn đã chấp hành đúng, đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình đúng được quy định tại các Điều 70, 72 BLTTDS.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; đề nghị Hội đồng xét xử quyết định:

- Về hôn nhân: xử cho chị Trần Thị T ly hôn anh Trương Vũ H.

- Về nuôi con chung: giao cháu Trương Thảo V, sinh ngày 04/8/2012 cho chị Trần Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

- Về án phí: chị Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số CC/2021/0000083 ngày 16/3/2022 của Chi cục THADS huyện Cam Lộ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị T khởi kiện yêu cầu xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Trương Vũ H. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn anh Trương Vũ H có nơi đăng ký thường trú và chỗ ở tại thôn P, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Trương Vũ H có đơn xin giải quyết vắng mặt vụ án nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Trương Vũ H.

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Trương Vũ H kết hôn với nhau năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Quảng Trị và sinh sống tại thôn P, xã N cùng mẹ anh H. Quá trình vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, theo như chị T, anh H trình bày thì do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung trong cuộc sống. Từ năm 2018, chị T bỏ về nhà bố của chị T tại thôn B, xã N sinh sống cho đến nay. Chính quyền địa phương nơi anh H, chị T sinh sống cho biết: mâu thuẫn vợ chồng như thế nào thì chính quyền địa phương không rõ, chỉ biết hơn 3 năm nay chị T cùng con chuyển về thôn B, xã N sinh sống với bố chị T, vợ chồng sống ly thân. Xét thấy chị T, anh H đã ly thân thời gian dài, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài và nhất là hai bên đều khẳng định tình cảm vợ chồng đến nay không còn, đều cùng đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trần Thị T được ly hôn với anh Trương Vũ H.

[3] Về nuôi con chung: Chị Trần Thị T và anh Trương Vũ H có 01 con chung là cháu Trương Thảo V, sinh ngày 04/8/2012, chị T và anh H đều thống nhất giao cháu V cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và anh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy:

Cháu Trương Thảo V, sinh ngày 04/8/2012, hiện nay đã trên 7 tuổi, cháu Vy có bản trình bày ý kiến với nguyện vọng được sống cùng mẹ. Theo chính quyền địa phương và bà Nguyễn Thị L – mẹ của anh H xác nhận từ khi cùng chị T chuyển về sinh sống tại thôn B, xã N cùng bố chị T thì cháu V đều do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị T hiện có công việc, thu nhập ổn định. Nhằm đảm bảo tính ổn định cho cháu V cũng như quyền lợi về mọi mặt cho cháu, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, giao cháu V cho chị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.

[5] Về án phí: chị Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 24, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

- Về hôn nhân: xử cho chị Trần Thị T ly hôn anh Trương Vũ H.

- Về nuôi con chung: giao cháu Trương Thảo V, sinh ngày 04/8/2012 cho chị Trần Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh Trương Vũ H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số CC/2021/0000083 ngày 16/3/2022 của Chi cục THADS huyện Cam Lộ. Chị Trần Thị T đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lộ - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về