TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện E tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 153/2023/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2023; về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 370/2023/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Sơn Thị Phò L, sinh năm 1996;
Địa chỉ: Ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh Sóc Trăng. (có đơn xin vắng mặt)
- Bị đơn: Anh Lý Thanh H, sinh năm 1992;
Địa chỉ: Số 30, ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/09/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Sơn Thị Phò L trình bày: Nguyên năm 2015, chị Sơn Thị Phò L với anh Lý Thanh H xác lập quan hệ hôn nhân, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn và được UBND xã W cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 13/05/2015. Sau đám cưới anh Lý Thanh H cùng chị Sơn Thị Phò L sinh sống tại nhà cha mẹ anh Lý Thanh H (ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh Sóc Trăng). Trong quá trình chung sống anh chị có hai con chung là bé Lý Thanh N, sinh ngày 07/01/2015 (theo Giấy khai sinh số 110 ngày 13/3/2015) và bé Lý Ngọc Gia M, sinh ngày 12/12/2018 (theo Trích lục khai sinh số 45/TLKS-BS ngày 09/1/2019); bé Lý Thanh N sống với anh Lý Thanh H, bé Lý Ngọc Gia M sống với chị Sơn Thị Phò L; không có tài sản chung, không có nợ chung và cũng không có người khác nợ vợ chồng. Trong thời gian chung sống vợ chồng thường cải vả, phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Lý Thanh H thường đánh chị Sơn Thị Phò L và bỏ nhà đi nơi khác sinh sống, không lo vợ con nên đã không còn chung sống vợ chồng từ tháng 02/2023 cho đến nay.
Nay chị Sơn Thị Phò L nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Thị Phò L xin được ly hôn với anh Lý Thanh H.
- Về con chung: Yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là bé Lý Ngọc Gia M, sinh ngày 12/12/2018 đến trưởng thành (tròn 18 tuổi); đồng ý giao bé Lý Thanh H, sinh ngày 07/01/2015 cho anh Lý Thanh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; chị Sơn Thị Phò L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con (bé H1) và không cấp dưỡng nuôi con (bé H).
- Về tài sản chung, nợ chung, người khác nợ vợ chồng: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Bị đơn Lý Thanh H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án số 153/2023/TB-TLVA ngày 03/10/2023 và Thông báo (Về việc yêu cầu đương sự tự khai và cung cấp chứng cứ) số 169/2023/TB- TLVA ngày 23/10/2023 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Sóc Trăng (nhận ngày 05/10/2023 và ngày 25/10/2023) nên anh Lý Thanh H đã biết nội dung, căn cứ khởi kiện và những vấn đề anh Lý Thanh H yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng anh Lý Thanh H không có văn bản trả lời theo Toán án ấn định. Đồng thời, Tòa án đã thông báo và triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn không tham gia và có đơn xin vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn xin vắng mặt và không có ý kiến khác nên xem như giữ nguyên nội dung đơn yêu cầu khởi kiện.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ và chấp hành đúng pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đồng thời, phát biểu quan điểm về tính có căn cứ và hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[I] Về tố tụng :
[1] Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn Sơn Thị Phò L yêu cầu Tòa án giải quyết xin được ly hôn với anh Lý Thanh H; yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là bé Lý Ngọc Gia M, sinh ngày 12/12/2018 đến trưởng thành (tròn 18 tuổi); đồng ý giao bé Lý Thanh H, sinh ngày 07/01/2015 cho anh Lý Thanh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; chị Sơn Thị Phò L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con (bé H1) và không cấp dưỡng nuôi con (bé H); tài sản chung, nợ chung, người khác nợ vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi thụ lý vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[2] Trong vụ án bị đơn Lý Thanh H cư trú tại số 30, ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh Sóc Trăng, vụ án được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoạc cần ủy thác tư pháp. Do vậy, Toà án nhân dân huyện E, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Sơn Thị Phò L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn Lý Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm mà vẫn vắng mặt không lý do và không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.
[II] Về nội dung :
[1] Nguyên đơn Sơn Thị Phò L và bị đơn Lý Thanh H kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được UBND xã W cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 13/3/2015, nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị Sơn Thị Phò L với anh Lý Thanh H là hợp pháp. Sau khi kết chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H chung sống hạnh phúc và đã có hai con chung là bé Lý Thanh N, sinh ngày 07/01/2015 và bé Lý Ngọc Gia M, sinh ngày 12/12/2018, theo bà Sơn Thị Phò L trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, xảy ra mâu thuẫn và bất hòa trong cuộc sống nên đã không còn chung sống vợ chồng từ tháng 02 năm 2023 cho đến nay. Bị đơn Lý Thanh H tuy không có ý kiến và không tham gia tố tụng nhưng biết về nội dung khởi kiện và yêu cầu của nguyên đơn Sơn Thị Phò L mà không phản đối.
[2] Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn...; Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình...” và theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Do đó, chị Sơn Thị Phò L hoặc anh Lý Thanh H cùng chị Sơn Thị Phò L có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, nên ngày 25/9/2023 chị Sơn Thị Phò L tự mình gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Lý Thanh H là phù hợp theo quy định pháp luật.
[3] Theo nguyên đơn Sơn Thị Phò L trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, xảy ra mâu thuẫn và bất hòa trong cuộc sống nên đã không còn chung sống vợ chồng từ tháng 02 năm 2023 cho đến nay, thời gian chị Sơn Thị Phò L với anh Lý Thanh H phát sinh mâu thuẫn và không còn chung sống tính đến thời điểm khởi kiện và xét xử sơ thẩm là đã nhiều năm, nên mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, đến mức trầm trọng, làm cho cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được, tình cảm vợ chồng thật sự đã hết và về tương lai cũng không thể hàn gắn được, nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của các bên và đến việc nuôi dạy con cái, nay chị Sơn Thị Phò L cương quyết ly hôn với anh Lý Thanh H. Do đó, theo chị Sơn Thị Phò L yêu cầu xin được ly hôn với anh Lý Thanh H là có căn cứ và phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp.
[4] Về con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng: theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn thì “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Xét thấy, bé Lý Thanh N, sinh ngày 07/01/2015 tính đến ngày xét xử sơ thẩm bé Lý Thanh N trên 07 tuổi nên quyết định giao cháu cho ai trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu và phải xem xét nguyện vọng của cháu; trên thực tế bé Lý Thanh N hiện tại được anh Lý Thanh H nuôi dưỡng, chăm sóc tốt và tình cảm gắn bó với ông Lý Thanh H. Đồng thời, tại Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 20/11/2023, có sự chứng kiến của bà Sơn Thị Phò L, bé Lý Thanh N nguyện vọng sau khi cha mẹ ly hôn cháu xin được sống với anh Lý Thanh H và hiện tại anh Lý Thanh H cũng có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con. Bé Lý Ngọc Gia M sinh ngày 12/12/2018, tính đến ngày xét xử sơ thẩm trên 36 tháng tuổi nhưng chưa đủ 07 tuổi nên quyết định giao bé cho ai trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của bé. Trên thực tế bé Lý Ngọc Gia M từ khi chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H không còn chung sống thì chị Sơn Thị Phò L là người trực tiếp nuôi dưỡng cho đến nay, bé Lý Ngọc Gia M hiện được chị Sơn Thị Phò L nuôi dưỡng, chăm sóc tốt và tình cảm gắn bó với chị Sơn Thị Phò L, nếu thay đổi môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần (đời sống tâm sinh lý và tình cảm) và cuộc sống bình thường của bé, nên sau khi ly hôn tiếp tục giao bé Lý Ngọc Gia M cho chị Sơn Thị Phò L trực tiếp nuôi là hợp tình, hợp lý và có căn cứ pháp luật. Chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H là người trực tiếp nuôi các con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, đây là sự tự nguyện của chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H. Do vậy, theo chị Sơn Thị Phò L yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là bé Lý Ngọc Gia M, sinh ngày 12/12/2018 đến trưởng thành (tròn 18 tuổi); đồng ý giao bé Lý Thanh H, sinh ngày 07/01/2015 cho anh Lý Thanh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H không cấp dưỡng nuôi con là có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về tài sản chung, nợ chung và người khác nợ lại, theo chị Sơn Thị Phò L xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Nếu sau này có phát sinh và tranh chấp thì sẽ khởi kiện và giải quyết theo quy định pháp luật.
[6] Từ những phân tích và nhận định như đã nêu trên, theo yêu cầu khởi kiện nguyên đơn là có căn cứ, nên được chấp nhận.
[7] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, nên được chấp nhận.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân theo mức án phí không giá ngạch theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; theo hướng dẫn tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tu yên xử :
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Sơn Thị Phò L.
- Về quan hệ hôn nhân: Đồng ý cho chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H được lý hôn.
- Về con chung: Giao bé Lý Ngọc Gia M, sinh ngày 12/12/2018 cho chị Sơn Thị Phò L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (tròn 18 tuổi) và giao bé Lý Thanh N, sinh ngày 07/01/2015 cho anh Lý Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (tròn 18 tuổi). Chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc con chung cho chị Sơn Thị Phò L và anh Lý Thanh H theo quy định pháp luật, không ai có quyền ngăn cản.
- Về tài sản chung, nợ chung và người khác nợ lại: Theo chị Sơn Thị Phò L không có và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt ra xem xét.
2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Sơn Thị Phò L phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0010308 ngày 02/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện E, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị Sơn Thị Phò L đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.
3. Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại UBND cấp xã nơi cư trú) để xin Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 06/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về