Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK TÔ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26/9/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 44/2022/TLST-HNGĐ ngày 23/6/2022 về việc “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/9/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1978.

- Bị đơn: Chị Nông Thị C, sinh năm 1978.

Cùng trú tại: Thôn ĐN, xã NT, huyện ĐT, tỉnh Kon Tum.

Các đương sự có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn - anh Hoàng Văn D trình bày:

Anh và chị Nông Thị C tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ngọk Tụ năm 2004. Sau đó, đến năm 2014 vợ chồng mâu thuẫn càng gay gắt, vợ tôi thường xuyên bài bạc, không lo làm ăn, nhiều lúc còn đánh tôi và đập phá đồ đạc, có lần chị C đổ xăng đòi đốt nhà. Không tôn trọng mẹ chồng. Tổ Hòa giải của UBND xã Ngọk Tụ tiến hành nói chuyện, khuyên bảo nhưng vẫn không được. Chúng tôi đã ly thân 02 năm nay, con tôi cũng không coi tôi là cha, vì vậy tôi đề nghị được ly hôn với chị C.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Hoàng Sơn A, sinh ngày 20/4/2005 và Hoàng Thị V, sinh ngày 09/12/2006. Vì chị C đề nghị được nuôi con và các con cũng muốn được ở với chị nên Anh D đồng ý để chị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 cháu.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn - chị Nông Thị C trình bày:

chị C thống nhất về thời điểm kết hôn, nhưng mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu từ năm 2006, sau khi sinh cháu Viên, Anh D không lo cho con cái, hay nhậu nhẹt, chơi bời, bài bạc, bỏ vợ con đi vào tỉnh Bình Dương. Từ năm 2014 đến nay thì mâu thuẫn càng trầm trọng, chị đã làm nhà ở riêng, vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẩn không thể hàn gắn. Tôi đồng ý ly hôn nhưng tôi không ký vì vợ chồng chưa thỏa thuận được về tài sản chung, tôi chưa nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 5, tờ bản đồ số 63 do Anh D tặng cho, nhận được tôi mới đồng ý ly hôn, tài sản đất đai để lại hết cho con.

Về con chung: chị C đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung là Hoàng Sơn A, sinh ngày 20/4/2005 và Hoàng Thị V, sinh ngày 09/12/2006, không yêu cầu Anh D cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Chị muốn vợ chồng thỏa thuận, đề nghị để lại cho các con và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại các bản tự khai ngày 24 tháng 6 năm 2022, cháu Hoàng Thị V và cháu Hoàng Sơn A trình bày các cháu muốn được ở với Mẹ vì mẹ chăm sóc các cháu tốt hơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn giữ nguyên yêu cầu và ý kiến của mình.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

1. Về việc thực hiện thủ tục Tố tụng của Tòa án và các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đều tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.

2. Về nội dung:

- Về hôn nhân: Xét tình trạng hôn nhân của Anh D và chị C đã trầm trọng, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài không thể hàn gắn , mục đích của hôn nhân không còn đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh D, xử cho Anh D được ly hôn với chị C.

- Về con chung: Đề nghị giao các con chung là Hoàng Sơn A, sinh ngày 20/4/2005 và Hoàng Thị V, sinh ngày 09/12/2006 cho chị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. chị C không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

- Về tài sản chung: Các bên không yêu cầu nên không đề nghị xem xét.

- Về án phí: Anh D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tại đơn xin ly hôn của anh Hoàng Văn D yêu cầu giải quyết ly hôn và nuôi con chung với chị Nông Thị C, bị đơn trú tại Thôn ĐN, xã NT, huyện ĐT, tỉnh Kon Tum. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Đăk Tô thụ lý, giải quyết vụ án hôn nhân gia đình trên là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Hoàng Văn D và chị Nông Thị C kết hôn năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ngọk Tụ, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Tại phiên tòa, hai vợ chồng đều thừa nhận cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn gay gắt không thể hàn gắn, không còn yêu thương, quan tâm gì tới nhau. Biên bản xác minh ngày 09/9/2022 cho thấy, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, mặc dù đã được Ủy ban nhân dân xã Ngọk Tụ động viên, hàn gắn nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không có kết quả, hiện tại đã ly thân. Quá trình làm việc, hòa giải và tại phiên tòa, các đương sự thường xuyên có lời lẽ gay gắt, cãi vã, xúc phạm, mặc dù đã được Thẩm phán giải thích, hòa giải nhưng không mang lại kết quả.

Xét thấy, vợ chồng không còn sự quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống, không có mục đích hàn gắn hạnh phúc, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Hoàng Sơn A, sinh ngày 20/4/2005 và Hoàng Thị V, sinh ngày 09/12/2006. Trong bản tự khai, quá trình hòa giải và tại phiên tòa, chị C trình bày muốn được nuôi cả hai con, không yêu cầu Anh D cấp dưỡng, nguyện vọng của các cháu cũng mong muốn được ở với mẹ, Anh D đồng ý với yêu cầu của chị C. Vì vậy, ghi nhận sự thỏa thuận này của các đương sự, giao hai con chung cho chị C nuôi dưỡng là phù hợp.

[2.3] Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung. Tại bản tự khai ngày 24/6/2022, các phiên họp, hòa giải và tại phiên tòa, chị C trình bày đồng ý ly hôn với Anh D nhưng không ký vào các biên bản vì vợ chồng chưa thỏa thuận về tài sản xong, chị chưa nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 5, tờ bản đồ số 63 do Anh D tặng cho theo biên bản ngày 04/8/2022 tại UBND xã Ngọk Tụ, huyện Đăk Tô, tài sản chung hai vợ chồng sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu không thỏa thuận được sẽ khởi kiện sau. Xét thấy, đây là ý kiến của chị C về việc thỏa thuận chia tài sản chung với Anh D, không phải là yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa, chị C nộp cho Hội đồng xét xử 02 ảnh chụp từ điện thoại đi động với ý kiến “Cà phê của chị chết không rõ nguyên nhân” và 01 đơn trình bày đề ngày 26/9/2022 với nội dung “Tài sản chưa thỏa thuận được, riêng và chung. Về phần tôi, ông Diễn có bán của tôi hai chỉ vàng tôi tự mua, còn 01 cái bìa đỏ đang làm chưa xong. Tôi muốn cả hai chuyển hết tất cả sổ đất đang có cho hai đứa con để làm ăn về sau. Đó là ý kiến của tôi liên quan đến vụ án...”. Xét thấy, nội dung chị C trình bày về việc cây cà phê chết không liên quan đến việc giải quyết vụ án; đối với nội dung trình bày về tài sản, đó cũng là ý kiến trình bày của chị C, không phải yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí:

Anh Hoàng Văn D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Hoàng Văn D.

1. Về hôn nhân: Anh Hoàng Văn D được ly hôn với chị Nông Thị C.

2. Về con chung: Giao các con chung Hoàng Sơn A, sinh ngày 20/4/2005 và Hoàng Thị V, sinh ngày 09/12/2006 cho chị Nông Thị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi và tự lập được. Anh Hoàng Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con không ai được cản trở. Không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Anh Hoàng Văn D phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai số 0002492 ngày 23/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Anh Hoàng Văn D đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/9/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về