Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK HÀ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường xét xử dân sự (Tầng 2) Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 25/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXX- ST ngày 22 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/ 2 0 22 /QĐST- HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn Thống nhất, xã M, huyện H, tỉnh T. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đình Th, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn Thống nhất, xã M, huyện H, tỉnh T. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 5 năm 2022 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:

Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th tự nguyện kết hôn với nhau vào ngày 31/3/2014 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện H, tỉnh T. Sau khi kết hôn chị H và anh Th chung sống với nhau không hạnh phúc mà phát sinh mâu thuẫn ngay từ ban đầu. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do anh Th ham chơi, nghe theo bạn bè rủ rê chơi bời, không chịu khó làm ăn, không quan tâm đến gia đình, vợ con. Chị H đã khuyên can nhiều lần nhưng bị anh Th dùng những lời lẽ xúc phạm, đánh đập, dẫn đến vợ chồng sống ly thân nhiều lần và đã nộp đơn khởi kiện ra Tòa xin ly hôn, anh Th hứa sửa chữa và xin chị tha thứ nên chị rút đơn khởi kiện về để vợ chồng đoàn tụ hàn gắn. Tuy nhiên được một thời gian ngắn thì anh Th lại không thay đổi, chị H đã cố gắng hàn gắn để vợ chồng đoàn tụ, nhưng không có kết quả. Hiện nay anh Th cứ đi lang thang theo bạn bè ngoài xã hội, không quan tâm chăm sóc vợ, con, thường xuyên đe dọa giết chị, dùng những lời lẽ làm ảnh hưởng đến tinh thần và tâm lý của chị. Chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Th không còn nữa, chị cũng đã tha thứ cho anh Th quá nhiều lần. Cho nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đình Th, chị không thể quay về để vợ chồng đoàn tụ được nữa.

Về con chung: Quá trình chung sống giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th có hai con chung tên là Nguyễn Vũ Thiên Th, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2014 và Nguyễn Vũ An Nh, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2019 do chị Vũ Thị H đang nuôi dưỡng các con chung. Khi Tòa án giải quyết ly hôn, chị Vũ Thị H có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh Nguyễn Đình Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng, chị có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để nuôi dậy hai con ăn học cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét về phía bị đơn anh Nguyễn Đình Th: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho anh Nguyễn Đình Th, nhưng anh Th từ chối không nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, nên Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà đã thực hiện việc niêm yết Thông báo về việc thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất và lần thứ hai; Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử tại nơi cư trú của anh Nguyễn Đình Th, tại Ủy ban nhân dân xã Hà Mòn, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà theo quy định. Nhưng bị đơn không chấp hành, các lần đều vắng mặt không có lý do, nên đã gây khó khăn, kéo dài trong việc giải quyết vụ án. Mặt khác bị đơn cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ gì cho Tòa án, không yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu chứng cứ gì; không yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác, không có ý kiến hay yêu cầu phản tố gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H. Do đó, bị đơn anh Nguyễn Đình Th không có quan điểm giải quyết vụ án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả của mình khi không cung cấp chứng cứ, bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại bản tự khai ngày 06 tháng 7 năm 2022 cháu Nguyễn Vũ Thiên Th có nguyện vọng được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

Tại Biên bản xác minh chính quyền địa phương nơi cư trú về việc mâu thuẫn vợ chồng của chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th ngày 21 tháng 7 năm 2022: Thể hiện anh Nguyễn Đình Th và chị Vũ Thị H là công dân cư trú tại Thôn Thống Nhất, xã M, huyện H, tỉnh T, trong quá trình chung sống không thấy vợ chồng anh Th, chị H xảy ra mâu thuẫn phải nhờ đến chính quyền địa phương can thiệp.

Tại Biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Đình M, sinh năm 1948 trú tại Thôn Thống Nhất, xã M, huyện H, tỉnh T là bố đẻ của anh Nguyễn Đình Th cho rằng:

Về tình trạng hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th, ông sinh sống cùng thửa đất với vợ chồng anh Thuận, chị H, nhưng ăn riêng, ở riêng. Tuy nhiên, cuộc sống hàng ngày ông có biết mẫu thuẫn của vợ chồng anh Thuận, chị H bắt nguồn từ việc anh Th con trai ông ham vui, ham chơi, nghiện cờ bạc dẫn đến vợ chồng hay xích mích cãi lộn nhau, thậm chí xe ô tô phục vụ cho việc làm ăn của gia đình anh Th cũng bán, ông chỉ mong vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con cái.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Vũ Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Đình Th, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu anh Nguyễn Đình Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng. Về tài sản chung, nợ chung chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Đối với nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Còn bị đơn chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tranh luận tại phiên tòa, hôn nhân của chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th là hôn nhân hợp pháp, mâu thuẫn của anh, chị đã đến mức trầm trọng không thể khắc phục được nữa. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56; 81;

82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H.

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Đình Th.

+ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Vũ Thiên Th, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2014 và Nguyễn Vũ An Nh, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2019 cho chị Vũ Thị H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Vũ Thiên Th và Nguyễn Vũ An Nh trưởng thành đủ 18 tuổi.

+ Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu anh Nguyễn Đình Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng, xét thấy đây là sự tự nguyện của nguyên đơn nên cần chấp nhận.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Vũ Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở ý kiến của nguyên đơn và xem xét ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn chị Vũ Thị H và bị đơn anh Nguyễn Đình Th có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn Thống nhất, xã Hà Mòn, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum cho nên thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ pháp luật: Chị Vũ Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Đình Th, yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà đã thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp nuôi con đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3] Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng xác định nguyên đơn chị Vũ Thị H , bị đơn anh Nguyễn Đình Th.

Bị đơn anh Nguyễn Đình Th vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Đình Th là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[ 2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định và được Ủy ban nhân dân thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 47 ngày 31/3/2014 nên có căn cứ xác định đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Vũ Thị H, nhận thấy nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị và anh Th phát sinh từ việc anh Th ham vui, ham chơi, nghiện cờ bạc dẫn đến vợ chồng hay xích mích cãi lộn nhau, thậm chí xe ô tô phục vụ cho việc làm ăn của gia đình cũng bán. Từ đó, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm, thiếu sự quan tâm, chăm sóc giúp đỡ và chia sẻ với nhau trong cuộc sống gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, căng thẳng, mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng để tiếp tục cùng nhau xây dựng cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Mặc dù chị H đã nhiều lần cố gắng tìm giải pháp hàn gắn tình cảm, cho anh Th cơ hội nhưng không thành, dẫn đến vợ chồng chị đã nhiều lần phải sống ly thân. Căn cứ lời khai của chị Vũ Thị H và chứng cứ trong hồ sơ vụ án, thể hiện giữa chị H và anh Th không còn tình cảm với nhau. Hiện tại vợ chồng anh Thuận, chị H đã sống ly thân với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, anh Th thường xuyên đe dọa giết chị H, dùng những lời lẽ làm ảnh hưởng đến tinh thần và tâm lý của chị H. Mặt khác, quá trình Tòa án giải quyết vụ án anh Th bỏ mặc không đến Tòa, điều đó chứng tỏ tình cảm của anh Th đối với chị H cũng không còn, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân của anh chị đã thật sự trầm trọng, nếu tiếp tục chung sống sẽ không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H.

[2.2] Về con chung: Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th có hai con chung tên Nguyễn Vũ Thiên Th, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2014 và Nguyễn Vũ An Nh, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2019 chị Vũ Thị H là người đang chăm sóc, nuôi dưỡng các con. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên, anh Th và chị H từ khi sống ly thân đến nay thì các con sống cùng với chị H. Còn anh Th thường xuyên nghe theo bạn bè rủ rê đi chơi bời, không quan tâm đến các con, anh Th vắng mặt trong quá trình giải quyết, không tranh chấp và không có ý kiến gì về quyền nuôi con chung. Tuy nhiên, giao con cho ai nuôi dưỡng để con phát triển tốt về thể chất cũng như tinh thần của con thì cần phải xem xét đến điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con, chị H có công việc, có thu nhập ổn định, có đủ sức khỏe, đang là người trực tiếp nuôi con chung và có khả năng lo cho con. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của các con cũng như nguyện vọng của con muốn được ở cùng chị H, Hội đồng xét xử thấy rằng giao các con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp, đảm bảo cho sự phát triển ổn định về tâm sinh lý, cũng như thể chất cho các con nên cần chấp nhận.

Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị H là được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Vũ Thiên Th, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2014 và Nguyễn Vũ An Nh, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2019.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị Vũ Thị H không yêu cầu anh Nguyễn Đình Th phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh Th vắng mặt trong quá trình giải quyết. Xét thấy đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, sự tự nguyện này không vi phạm pháp luật và đạo đức nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

[2.6] Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đình Th được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 81; 82; 83; 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 5 năm 2022 của chị Vũ Thị H. Th.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Đình 2. Về con chung: Giao hai cháu Nguyễn Vũ Thiên Th, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2014 và Nguyễn Vũ An Nh, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2019 cho chị Vũ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Vũ Thiên Th và cháu Nguyễn Vũ An Nh đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Vũ Thị H không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con, nên anh Nguyễn Đình Th không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng.

Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định. Người không trực tiếp nuôi con (anh Nguyễn Đình Th) có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4.Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc chị Vũ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (hôn nhân gia đình sơ thẩm) là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng). Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng chẵn) chị H đã nộp theo biên lai số: AA/2021/0001671 ngày 17 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Chị Vũ Thị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 272; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26/9/2022) đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn kháng cáo của anh Nguyễn Đình Th được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

374
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về