Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 05/2024/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2024/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2024/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Q, sinh năm 1978; nơi thường trú: tổ dân phố H, phường H, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên; nơi tạm trú: nhà trọ Công ty C, khu dân cư D, tổ 8, khu phố B, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Đinh Văn Ch, sinh năm 1976; nơi thường trú: tổ dân phố H, phường H, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên; nơi tạm trú: nhà trọ Công ty C, khu dân cư D, tổ 8, khu phố B, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 01 năm 2024 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Đỗ Thị Q trình bày:

Về hôn nhân: Bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C chung sống năm 1996, đến năm 1997 đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (nay là Ủy ban nhân dân phường H, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên) theo giấy chứng nhận kết hôn số 18 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 20 tháng 5 năm 1997. Hôn nhân tự nguyện.

Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do ông C không lo làm ăn, thiếu nợ, bà Q phải trả nợ nhiều lần cho ông C. Gia đình liên tục phải thay đổi chỗ ở do thiếu nợ quá nhiều, chủ nợ áp lực. Nhận thấy mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Bà Q yêu cầu ly hôn với ông C.

Quá trình chung sống có 03 con chung là cháu Đinh Thị Như Q, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1999, cháu Đinh Công V, sinh ngày 23 tháng 9 năm 2004 và cháu Đinh Quang M, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2016.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Khi ly hôn bà Q yêu cầu nuôi con chung là cháu Đinh Quang M, không yêu cầu ông C cấp dưỡng cho con. Cháu Đinh Thị Như Q, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1999 và cháu Đinh Công V, sinh ngày 23 tháng 9 năm 2004, đã trưởng thành đủ 18 tuổi, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Quyên không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị đơn ông Đinh Văn C trình bày: Ông C và bà Đỗ Thị Q chung sống năm 1996. Đến năm 1997 đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên theo giấy chứng nhận kết hôn số 18 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 20 tháng 5 năm 1997.

Quá trình chung sống có 03 con chung là cháu Đinh Thị Như Q, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1999, cháu Đinh Công V, sinh ngày 23 tháng 9 năm 2004 và cháu Đinh Quang M, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2016.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, từ tình cảm, từ kinh tế, bắt nguồn từ việc ông C kinh doanh buôn bán hàng hóa không phù hợp từ đó thua lỗ. Từ đó ông C đi làm ăn xa, gửi tiền về cho bà Q trả nợ, bà Q đứng nhận nợ thay ông C và đứng ra trả nợ cho ông C, sự việc này xảy ra nhiều lần, kể từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bắt đầu từ 6 đến 7 năm trước. Vợ chồng vẫn còn sống chung, trong công việc vẫn hỗ trợ lẫn nhau. Hiện ông C làm tài xế cho Công ty bê tông A, ở quốc lộ A, huyện B, tỉnh Bình Dương thu nhập hàng tháng là 19.000.000 đồng. Trong các lần làm ăn xa nhà, việc trông nom chăm sóc giáo dục con, nuôi dưỡng con do bà Q chịu trách nhiệm. Ông C đi làm chỉ gửi tiền về để trả nợ số nợ do ông C gây nên còn ông C không hỗ trợ bà Q chi phí để nuôi con.

Bà Q yêu cầu ly hôn, ông C không đồng ý. Vợ chồng nên bỏ qua cho nhau để cùng nhau nuôi dạy con.

Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn, ông C không có bất kì yêu cầu nào về con chung, tài sản chung, nợ chung.

Tại biên bản lấy lời khai con chung ngày 29 tháng 01 năm 2024, cháu Đinh Quang M có nguyện vọng được sống chung với bà Q.

Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân: Công chức Tư pháp thị trấn L, huyện B cung cấp như sau: Bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C quá trình chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân như thế nào thì địa phương không có thông tin do không nhờ địa phương hoặc tổ chức đoàn thể can thiệp giải quyết theo quy định.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Đỗ Thị Q có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Bị đơn ông Đinh Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định về thẩm quyền thụ lý tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS). Việc xác định tư cách tham gia tố tụng đúng quy định tại Điều 68 của BLTTDS. Việc xác minh thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng quy định tại các Điều 95 đến 98 của BLTTDS. Trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát và cho đương sự đúng quy định tại các Điều 196, 196 của BLTTDS. Thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 của BLTTDS.

+ Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại các Điều 70, 71 của BLTTDS. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của BLTTDS.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Bà Q và ông C đăng ký kết hôn năm 1997 tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố Thái Nguyên đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn với lý do: ông C thường xuyên đánh đập bà Q, đánh bạc dẫn đến cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc. Hiện cả hai vợ chồng không còn sống chung từ năm 2017, tuy nhiên ông C thường xuyên đến nhà trọ của bà Q để gây sự và đánh đập nên dẫn tới mâu thuẫn kéo dài.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương nơi nguyên đơn và bị đơn cư trú được biết: Bà Q và ông C là vợ chồng, quá trình chung sống tại địa phương, bà Q và ông C có phát sinh mâu thuẫn, sống không hạnh phúc. Xét thấy, bà Q và ông C phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, mục đích sống chung không có ý nghĩa. Nguyên đơn và bị đơn không có điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn là có căn cứ để chấp nhận và phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung: có 03 con chung là cháu Đinh Thị Như Q (SN: 1999); cháu Đinh Công V (SN: 2004) và cháu Đinh Quang M (SN: 2016). Cháu Q và cháu V đã trưởng thành nên bà Q không yêu cầu tòa án giải quyết. Đối với cháu M, bà Q yêu cầu được nuôi dưỡng không yêu cầu ông C cấp dưỡng. Xét thấy, bà Q có công việc ổn định và hiện nay cháu M đang sinh sống ổn định với bà Q, cháu M có nguyện vọng sống chung với bà Q. Do đó, giao con chung cho nguyên đơn trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên là chính đáng và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ những phân tích đánh giá nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ông Đinh Văn C có nơi cư trú tại khu dân cư D, khu phố B, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương, tỉnh Bình Dương, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Đỗ Thị Q khởi kiện ông Đinh Văn C, yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung do đó quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Bà Đỗ Thị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Đinh Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về hôn nhân: hôn nhân của bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C là hôn nhân hợp pháp. Bà Q yêu cầu ly hôn ông C do mâu thuẫn vợ chồng kéo dài và không thể hàn gắn. Vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau, vợ chồng đã không còn sống chung từ năm 2017 cho đến nay. Có cơ sở xác định ông C vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Bà Q yêu cầu ly hôn với ông C là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C có 03 con chung là cháu Đinh Thị Như Q, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1999, cháu Đinh Công V, sinh ngày 23 tháng 9 năm 2004 và cháu Đinh Quang M, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2016. Con chung cháu Đinh Quang M hiện đang chung sống với bà Q, khi ly hôn bà Q yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu M, không yêu cầu ông C cấp dưỡng cho con. Quá trình tố tụng, cháu M có nguyện vọng được sống với bà Q. Xét, bà Q có nơi ở, việc làm, thu nhập ổn định đủ điều kiện chăm sóc, giáo dục con, Hội đồng xét xử xét, giao con chung cho bà Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Riêng cháu Q và cháu V đã trưởng thành đủ 18 tuổi, bà Q không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về nội dung vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà Đỗ Thị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238, các Điều 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, khoản 1 Điều 59, các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, 1. Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị Q đối với bị đơn ông Đinh Văn C về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về hôn nhân: cho ly hôn giữa bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C.

Về nuôi con chung: giao cháu Đinh Quang M, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2016 cho bà Đỗ Thị Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà Q không yêu cầu ông C cấp dưỡng cho con nên Tòa án không giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Đỗ Thị Q và ông Đinh Văn C không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung nên Tòa án không giải quyết.

2. Về án phí: Bà Đỗ Thị Q phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003361 ngày 19 tháng 01 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng.

3. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về