TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-PT NGÀY 20/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh S xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 06/2020/TLPT- HNGĐ ngày 2/7/2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.
Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 11/2020/HNGĐ-ST ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 07/2020/QĐ-PT ngày 04 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Mè Thị H; cư trú tại: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh S; nơi làm việc: Công ty TNHH S Việt Nam, địa chỉ: Khu Công nghiệp Q, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang; có mặt.
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn L; cư trú tại: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh S; có mặt.
- Người kháng cáo: Anh Hoàng Văn L là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án dân sự sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chị Mè Thị H và anh Hoàng Văn L được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 19-9-2017 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh S. Trong quá trình chung sống có 01 người con chung là cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 26-8-2018, hiện đang sinh sống cùng anh Hoàng Văn L.
Theo chị Mè Thị H trình bày: Mâu thuẫn giữa vợ chồng chị bắt đầu phát sinh khi chị mang thai con đầu lòng, kể từ tháng 12 năm 2019 đến nay vợ chồng chị sống ly thân. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị Mè Thị H yêu cầu xin ly hôn anh Hoàng Văn L và yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.
Về phía anh Hoàng Văn L trình bày: Thời gian đầu vợ chồng anh chung sống hạnh phúc, tuy nhiên từ tháng 6 năm 2018 vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn khi chị Mè Thị H quay lại công ty để đi làm, từ thời điểm đó vợ chồng anh sống ly thân. Tại phiên tòa sơ thẩm anh Hoàng Văn L yêu cầu được quay lại đoàn tụ với chị Mè Thị H và không nhất trí ly hôn, trong trường hợp nếu phải ly hôn anh Hoàng Văn L yêu cầu được trực tiếp nuôi dạy cháu Hoàng Văn H, yêu cầu chị Mè Thị H cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/tháng đến khi cháu Hoàng Văn H đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung và khoản cho vay, nợ chung: Các đương sự đều thừa nhận không có.
Với những nội dung như trên, Bản án hôn nhân gia đình số 11/2020/HNGĐ-ST ngày 17-6-2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S, căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mè Thị H. Xử cho nguyên đơn chị Mè Thị H được ly hôn với bị đơn anh Hoàng Văn L. Giao cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 26/8/2018 cho chị Mè Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Hoàng Văn L không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con và có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.
Ngoài ra Bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định, ngày 30-6-2020, bị đơn anh Hoàng Văn L có đơn kháng cáo một phần Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 11/2020/HNGĐ- ST ngày 17-6-2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S; yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết cho anh Hoàng Văn L được quyền trực tiếp nuôi con chung là cháu Hoàng Văn H cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo anh Hoàng Văn L bổ sung yêu cầu kháng cáo, yêu cầu được trực tiếp nuôi con và yêu cầu chị Mè Thị H phải đóng góp phí tổn nuôi con.
Chị Mè Thị H tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Hoàng Văn L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S.
Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh S:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Về nội dung: Cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 26-8-2018, hiện đang sinh sống cùng anh Hoàng Văn L nhưng cháu Hoàng Văn H đến nay chưa đủ 36 tháng tuổi. Theo khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án cấp sơ thẩm giao cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 26-8-2018 cho chị Mè Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi, là có căn cứ. Anh Hoàng Văn L kháng cáo là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Hoàng Văn L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Theo nguyên đơn chị Mè Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Hoàng Văn L có hộ khẩu thường trú tại địa bàn huyện H, tỉnh S nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S là đúng thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm giao con chung là cháu Hoàng Văn H còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Hoàng Văn L bổ sung kháng cáo yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu chị Mè Thị H cấp dưỡng nuôi con. Anh Hoàng Văn L cho rằng: Anh là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hoàng Văn H, chị Mè Thị H không về thăm con cũng không hỗ trợ anh nuôi con. Hiện nay cháu Hoàng Văn H khỏe mạnh, ngoan ngoãn, sinh sống cùng bố và bà nội.
[3] Xét kháng cáo của anh Hoàng Văn L, thấy rằng: Chị Mè Thị H thừa nhận cháu Hoàng Văn H do bà nội và anh Hoàng Văn L chăm sóc. Tuy nhiên, trong thời gian cháu được bố và bà chăm sóc chị có về thăm con nhưng mẹ anh Hoàng Văn L mắng chửi thậm tệ khiến chị sợ hãi không dám quay về thăm con. Hiện nay chị đang đi làm công nhận tại Bắc Giang, có thu nhập ổn định nên có điều kiện chăm sóc con tốt hơn anh Hoàng Văn L.
[4] Qua xác minh tại địa phương thể hiện anh Hoàng Văn L hiện tại đang sinh sống tại thôn T, xã H, huyện H, tỉnh S cùng mẹ đẻ là bà Hứa Thị C và cháu Hoàng Văn H; anh Hoàng Văn L không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản gì (BL 37). Đối với chị Mè Thị H hiện nay đang làm công nhân tại Công ty TNHH S Việt Nam, theo Phiếu lương tháng 5/2020 thì chị Mè Thị H có thu nhập 11.000.500 đồng/tháng. Mặt khác, cháu Hoàng Văn H còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn. Khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: " Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".
[5] Tòa án cấp sơ thẩm giao con chung là cháu Hoàng Văn H cho chị Mè Thị H trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm anh Hoàng Văn L xuất trình bản hợp đồng đào tạo, không có chữ ký đóng dấu, anh cho rằng đây là ban nháp, bản chính có đóng dấu anh đã nộp tại công ty anh không xuất trình được; anh Hoàng Văn L và chị Mè Thị H cũng không có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh Hoàng Văn L, cần giữ nguyên nội dung Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S về con chung. Anh Hoàng Văn L đang trực tiếp nuôi con nên cần buộc anh giao cháu Hoàng Văn H cho chị Mè Thị H.
[6] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của anh Hoàng Văn L không được chấp nhận nên anh Hoàng Văn L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Bộ luật Tố tụng dân sự Không chấp nhận kháng cáo của anh Hoàng Văn L, giữ nguyên nội dung Bản án sơ thẩm số 11/2020/HNGĐ-ST ngày 17-6-2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh S về con chung, cụ thể:
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 2 Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 58, 81, 82, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
1. Về con chung: Giao cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 26-8-2018 cho chị Mè Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Hoàng Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Buộc anh Hoàng Văn L giao cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 26-8-2018 cho chị Mè Thị H.
2. Về án phí phúc thẩm: Anh Hoàng Văn L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm để sung ngân sách Nhà nước. Xác nhận anh Hoàng Văn L đã nộp đủ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/2016/0001938, ngày 07 tháng 7 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh S.
3. Về hiệu lực bản án: Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2020/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 05/2020/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về