Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 04/2020/HNGĐ-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 04/2020/HNGĐ-PT NGÀY 12/03/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Y xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 11/2019/TLPT-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 63/2019/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2020/QĐ-PT ngày 03 tháng 02 năm 2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 01/TB-TA ngày 21-2-2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thanh H1 - sinh năm 1989 Địa chỉ: Tổ dân phố Hy (tổ 18 cũ), phường H, thành phố Y; Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Đỗ Thanh H2 - sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ dân phố Hy (tổ 18 cũ), phường H, thành phố Y; Có mặt.

3. Người kháng cáo: Anh Đỗ Thanh H2 là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y vụ án có nội dung như sau:

Chị Phạm Thị Thanh H1 và anh Đỗ Thanh H2 được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 19-01-2013 tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Y, tỉnh Y là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 11-2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu các bên đều thừa nhận là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã. Mâu thuẫn đã được hai vợ chồng và hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Chị H1 xác định tình cảm đã hết, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H2.

Về con chung: Chị H1 và anh H2 có 03 con chung là cháu Đỗ Gia H3, sinh ngày 08-3-2009; cháu Đỗ Bảo H4, sinh ngày 13-3-2013; cháu Đỗ Gia H5, sinh ngày 13-6-2018. Khi ly hôn chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung và không yêu cầu anh Đỗ Thanh H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản, nợ chung: Chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai anh H2 trình bày: Anh xác nhận về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn và những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng như chị H1 đã trình bày nêu trên là đúng. Nay chị H1 có đơn xin ly hôn anh đồng ý với ý kiến là đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của chị H1.

Về nuôi con: Anh H2 xác nhận có ba con chung với chị H1 như chị H1 nêu trên là đúng. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, anh nhất trí với nguyện vọng của chị H1 là để chị H1 trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả ba con chung là cháu Đỗ Gia H3, sinh ngày 08-3-2009; cháu Đỗ Bảo H4, sinh ngày 13-3-2013; cháu Đỗ Gia H5, sinh ngày 13-6-2018. Anh H2 không phải cấp dưỡng nuôi ba con chung.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2019/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 1 điều 238; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 về án phí, lệ phí Tòa án.

1.Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Thanh H1 được ly hôn với anh Đỗ Thanh H2.

2.Về con chung: Giao cháu Đỗ Gia H3, sinh ngày 08-3-2009; cháu Đỗ Bảo H4, sinh ngày 13-3-2013; cháu Đỗ Gia H5, sinh ngày 13-6-2018 cho chị Phạm Thị Thanh H1 trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Đỗ Thanh H2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh H2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Ngày 02 tháng 12 năm 2019, bị đơn anh Đỗ Thanh H2 kháng cáo với nội dung: Không nhất trí với bản án sơ thẩm về việc giao 03 con chung cho chị Phạm Thị Thanh H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H2 yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cho anh được nuôi dưỡng hai cháu Đỗ Gia H3, sinh ngày 08-3- 2009 và cháu Đỗ Bảo H4, sinh ngày 13-3-2013.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Anh Đỗ Thanh H2 giữ nguyên nội dung kháng cáo và cung cấp bảng lương chứng minh thu nhập đủ điều kiện nuôi con.

Chị Phạm Thị Thanh H1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm:

Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán và Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án phúc thẩm đến trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm nghị án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Áp dụng kho¶n 2 Điều 308 của Bé luËt Tè tông d©n sù; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Đỗ Thanh H2; Sửa bản án sơ thẩm số 63/2019/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y và đề nghị giao cho anh H2 nuôi một con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ váo các chứng cứ, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Chị H1 có đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh Đỗ Thanh H2 và có nguyện vọng trực tiếp nuôi 03 con chung; anh Đỗ Thanh H2 có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố Hy (tổ 18 cũ), phường H, thành phố Y, tỉnh Y. Việc Tòa án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y đã thụ lý, giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã triệu tập anh H2 đến để hòa giải nhiều lần nhưng anh H2 không có mặt. Đến ngày 30-11- 2019 anh H2 đã nộp bản tự khai cho Tòa án cấp sơ thẩm với nội dung đồng ý với ý kiến và nguyện vọng của chị H1, chị H1 không yêu cầu anh H2 cấp dưỡng nuôi ba con chung nên Tòa án cấp sơ thẩm giao 03 con chung cho chị H1 trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. [3] Nguyện vọng được nuôi con chung của chị Phạm Thị Thanh H1 và anh Đỗ Thanh H2 đều chính đáng. Tại cấp phúc thẩm, anh H2 cung cấp được các tài liệu chứng cứ thể hiện anh có thu nhập từ lương để xác định điều kiện nuôi dưỡng con vì vậy cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của anh đề nghị được nuôi dưỡng con chung.

[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của anh Đỗ Thanh H2 sửa Bản án sơ thẩm số 63/2019/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y theo hướng cho anh H2 nuôi cháu Đỗ Bảo H4, sinh ngày 13-3-2013. Việc sửa bản án sơ thẩm do có tình tiết mới nên cấp sơ thẩm không có lỗi.

[5] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ cần được chấp nhận.

[6] Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên anh H2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Đỗ Thanh H2; sửa Bản án sơ thẩm số 63/2019/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Y, tỉnh Y:

Giao cháu Đỗ Gia H3, sinh ngày 08-3-2009; cháu Đỗ Gia H5, sinh ngày 13-6-2018 cho chị Phạm Thị Thanh H1; giao cháu Đỗ Bảo H4, sinh ngày 13-3- 2013 cho anh H2 trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 04/2020/HNGĐ-PT

Số hiệu:04/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về