Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 154/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST–HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Trừ Văn T, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Xuân Đ, sinh năm 1973; địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Trừ Văn T, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nhận ngày 09-11-2021 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị S trình bày:

Bà Nguyễn Thị S và ông Trần Xuân Đ tự nguyện chung sống, có tổ chức đám cưới và đăng kí kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã D, huyện C, tỉnh Nghệ An vào năm 2001. Thời gian đầu bà S, ông Đ sống hạnh phúc đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng, ông Đ thường xuyên chửi rủa xúc phạm bà S, thường xuyên cãi nhau, ông Đ đi làm có thu nhập nhưng không lo cho con cái chỉ biết tiêu xài cho bản thân, dùng tiền để ăn chơi với những người phụ nữ khác và đam mê đánh bạc. Một mình bà S phải tự đi làm nuôi 04 con nhỏ, ông Đ không phụ giúp bà S bất cứ việc gì trong gia đình, bà S đã nhiều lần cho ông Đ cơ hội sửa đổi nhưng vẫn chứng nào tật nấy. Nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nguyễn Thị S yêu cầu ly hôn với ông Trần Xuân Đ.

Về con chung: Có 04 con chung tên Trần Thị Như Q, sinh ngày 18/01/2003, Trần Thị P, sinh ngày 06/10/2004, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 23/11/2009 và Trần Thị Phương T, sinh ngày 19/3/2017. Bà S yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 03 con chung tên Trần Thị P, Trần Thị Bảo N, Trần Thị Phương và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng. Đối với Trần Thị Như Q đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bà S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Bị đơn ông Trần Xuân Đ được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp công khai tài liệu chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông Đ.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Vụ án thụ lý đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do xem như từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Đ có nơi cư trú tại xã Trừ Văn T, huyện B, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà S vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt bà S theo khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Trần Xuân Đ được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà S và ông Đ chung sống có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 51 tại UBND xã D, huyện C, tỉnh Nghệ An ngày 16/11/2001 nên hôn nhân của bà S và ông Đ là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vả, không có sự tin tưởng, yêu thương tôn trọng lẫn nhau, ông Đ không có trách nhiệm trong gia đình, tại biên bản xác minh ngày 18/11/2021 thể hiện bà S, ông Đ trong quá trình chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cãi nhau. Ông Đ được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến làm việc thể hiện việc không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ vợ chồng với bà S. Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ quan tâm chăm sóc lẫn nhau nhưng hiện nay bà S, ông Đ thường xuyên cãi vả và không còn cùng chia sẻ, thực hiện các công việc chung trong gia đình như vậy đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền, nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà S là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Có 04 con chung tên Trần Thị Như Q, sinh ngày 18/01/2003, Trần Thị P, sinh ngày 06/10/2004, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 23/11/2009 và Trần Thị Phương T, sinh ngày 19/3/2017. Bà S yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 03 con chung tên Trần Thị Phương, Trần Thị Bảo Ngọc, Trần Thị Phương Thảo. Căn cứ biên bản lấy lời khai cháu Phương, cháu Ngọc đều có nguyện vọng sống với mẹ là bà S và Hội đồng xét xử nhận thấy cháu Thảo còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ nên yêu cầu của bà S là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Đối với Trần Thị Như Quỳnh đã đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về cấp dưỡng: Bà S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà S không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, khoản 2 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S đối với bị đơn ông Trần Xuân Đ về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

- Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị S được ly hôn với ông Trần Xuân Đ.

- Về con chung: Giao 03 con chung là các cháu Trần Thị P, sinh ngày 06/10/2004, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 23/11/2009 và Trần Thị Phương T, sinh ngày 19/3/2017 cho bà Nguyễn Thị S được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Đối với Trần Thị Như Q đã đủ 18 tuổi nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về cấp dưỡng: Bà S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2021/0008798 ngày 09 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về