TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 02A/2024/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 86/2023/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 14/01/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST-HNGĐ ngày 01/02/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Dương Hồng N, sinh năm 1990, địa chỉ: Đội 4, thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Đào Quang H, sinh năm 1985, địa chỉ: Đội 4, thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 15/8/2023, bản tự khai ngày 06/9/2023 nguyên đơn chị Dương Thống Nhất đều trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đào Quang H trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 14/4/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh H thường xuyên gây gỗ, chửi bới, xúc phạm chị nên không thể sống chung được nữa, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình từ tháng 01/2019 cho đến nay, hai người ly thân nhau, không ai quan tâm gì đến ai nữa. Hiện tại, chị xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn.
Con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 01 con chung Đào Thị Hạnh D, sinh ngày 05/01/2015. Ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, vì chị đủ khả năng và điều kiện nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị N trình bày vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Đào Quang H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, kể cả Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập phiên tòa hai lần nhưng anh H vẫn vắng mặt mà không có lý do.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa;
[1]. Về tố tụng
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Yêu cầu khởi kiện của chị Dương Hồng N xin ly hôn anh Đào Quang H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy đã thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy đã kiểm tra, xác minh, thấy bị đơn anh Đào Quang H có nơi cư trú: Thôn 4 T, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình theo giấy xác nhận thông tin cư trú của Công an xã L. Tòa án đã tống đạt, niêm yết các thông báo, quyết định xét xử và giấy triệu tập phiên tòa hai lần hợp lệ nhưng anh H không đến tòa mà không có lý do. Như vậy, bị đơn đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được pháp luật quy định. Ngày 06/9/2023, Tòa án nhận được đơn xin xét xử vắng mặt của nguyên đơn chị Dương Hồng N, có nội dung giữ nguyên quan điểm yêu cầu ly hôn và nuôi con như đã trình bày tại đơn khởi kiện và bản tự khai nói trên. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo các điểm a, b khoản 2 Điều 227 và các khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. [2]. Về nội dung:
[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án, cho thấy, chị Dương Hồng N và anh Đào Quang H yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 14/4/2014 là hôn nhân hợp pháp.
Theo trình bày tại đơn khởi kiện và bản khai của nguyên đơn chị Dương Hồng N trong quá trình giải quyết vụ án, thì vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc chỉ được một thời gian ngắn, sau đó thường xuyên xảy ra mẫu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh H thường xuyên gây gỗ, chửi bới, xúc phạm chị, làm cho tình cảm vợ chồng phai nhạt, mất mát, không thể hàn gắn được. Trong quá trình giải quyết, Tòa án cũng đã tạo điều kiện về mặt thời gian, hòa giải nhiều lần để vợ chồng có thể thông cảm, bỏ qua những đố kị, mặc cảm cho nhau, cải thiện lại quan hệ hôn nhân, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh H vẫn vắng mặt kể cả tại phiên tòa lần thứ hai, mặc dù đã được Tòa án thực hiện biện pháp tống đạt trực tiếp Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập cho anh H thông qua mẹ anh H. Qua xác nhận của Công an xã L, anh H có nơi cư trú tại xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình và đang có mặt, làm ăn, sinh sống tại địa phương. Chứng tỏ anh H cố tình không chấp hành giấy triệu tập và thông báo của Tòa án, từ bỏ quyền lợi nghĩa vụ của mình, không có thiện chí hòa giải để bảo vệ hạnh phúc gia đình và không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị N nữa.
Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị N, để xử cho chị N và anh H được ly hôn nhau là có căn cứ và phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[2.2]. Về con chung: Chị N trình bày vợ, chồng có một con chung: Đào Thị Hạnh D, sinh ngày 05/01/2015, ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, vì chị đủ khả năng và điều kiện nuôi con. Anh H không có mặt tại Tòa án lần nào để thể hiện ý chí nguyện vọng của mình nên cần chấp nhận yêu cầu của chị N là phù hợp với pháp luật và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Đào Thị Hạnh D.
[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày vợ chồng không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Dương Hồng N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, các điểm a, b khoản 2 Điều 227, các khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Dương Hồng N.
1. Xử cho chị Dương Hồng N và anh Đào Quang H được ly hôn nhau;
2. Con chung: Giao cho chị Dương Hồng N được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Đào Thị Hạnh D, sinh ngày 05/01/2015, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị N đủ khả năng, điều kiện nuôi con và không có yêu cầu. Anh Đào Quang H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Dương Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình theo biên lai số 0004697 ngày 16/8/2023.
Nguyên đơn chị Dương Hồng N và bị đơn anh Đào Quang H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02a/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 02a/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về