TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 02/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 98/2023/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2023 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST – DS ngày 28/02/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị D - sinh năm: 1992 Trú quán: Thôn T2, xã Q, huyện V, tỉnh T.
Nơi ở hiện nay: Thôn T, xã L, huyện V, tỉnh T.
Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Tào Văn Đ - sinh năm 1985;
Trú quán: Thôn T2, xã Q, huyện V, tỉnh T.
Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/9/2023, bản tự khai ngày 22/11/2023 nguyên đơn chị Lê Thị D trình bày:
- Về hôn nhân: Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện V, tỉnh T vào ngày 20/10/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Nguyên nhân:
Do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống cũng như trong công việc làm ăn. Từ tháng 07/2023 đến nay vợ chồng chị đã sống ly thân không ai quan tâm đến ai nữa. Nay chị D xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc gia đình không có, vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm đến nhau nữa nên chị D đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Tào Văn Đ.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là: Tào Anh K - sinh ngày 29/01/2013 (giới tính: Nam) và Tào Văn N – sinh ngày 09/12/2015 (giới tính: Nam). Hiện nay các cháu phát triển bình thường về thể lực và trí lực. Từ khi vợ chồng sống ly thân cháu K ở cùng với anh Đ, cháu N ở cùng với chị D.
Khi ly hôn chị D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu N; giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K đến khi các cháu đủ tuổi thành niên. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
- Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thoả thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Tào Văn Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do, không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ kèm theo nên Tòa án không thu thập được nguyện vọng của anh Tào Văn Đ.
Tại Biên bản xác minh ngày 14/12/2023, UBND xã Q, huyện V, tỉnh Thanh Hóa nơi anh Đ và chị D có đăng ký hộ khẩu thường cho biết: Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện V, tỉnh T vào ngày 20/10/2011. Sau khi kết hôn chị D về nhà anh Đ sinh sống cùng với anh Đ và mẹ chồng. Đến giữa năm 2023 chị D về nhà bố mẹ đẻ ở xã L, huyện V để ở từ đó cho đến nay. Chính quyền địa phương cũng không nắm được nguyên nhân vợ chồng chị D, anh Đ mâu thuẫn là gì, chỉ nghe làng xóm phản ánh vợ chồng chị D, anh Đ cũng hay cải vã lẫn nhau vì thế chị D đã về nhà bố mẹ đẻ để ở. Vợ chồng chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ có 02 con chung tên là: Tào Anh K – sinh ngày 29/01/2013 (giới tính: Nan) và Tào Văn N – sinh ngày 09/12/2015 (giới tính: Nam). Từ khi vợ chồng chị D, anh Đ ly thân cháu K vẫn ở cùng bà nội và bố còn cháu N đi theo mẹ. Hiện nay cả 02 cháu Tào Anh K và Tào Văn N vẫn đang theo học tại trường tiểu học Q. Về điều kiện kinh tế: chị Lê Thị D trước đây làm công nhân cho Công ty may đóng trên địa bàn xã L, hiện nay chị D không ở thôn T 2, xã Q nữa nên chính quyền địa phương cũng không nắm được hiện nay chị D làm gì, thu nhập như thế nào. Anh Tào Văn Đ hiện nay đang sinh sống tại thôn T2, xã Q. Anh Đ làm nghề tự do, công việc cũng ổn định nhưng thu nhập cụ thể như thế nào chính quyền địa phương không nắm được. Anh Đ, chị D không có nhà đất tại xã Q. Quá trình sinh sống tại thôn T2, vợ chồng anh Đ, chị D và các con ở cùng với mẹ đẻ anh anh Đ là bà Phạm Thị L tại nhà của bà L. Về đạo đức, lối sống: Quá trình sinh sống tại địa phương xã Q chị D và anh Đ có đạo đức tốt, chấp hành tốt các quy định của nơi cư trú, không vi phạm pháp luật.
Ngày 17/02/2024, chị Lê Thị D cung cấp 02 Giấy xác nhận học sinh có xác nhận của Ban giám hiệu trường tiểu học Q nơi cháu Tào Anh K và cháu Tào Văn N học tập xác nhận cháu K và cháu N là học sinh chăm ngoan, có học lực tốt, đóng góp đầy đủ các khoản theo quy định cho nhà trường. Mọi đóng góp của cháu K đều do bố cháu là anh Tào Văn Đ thực hiện, mọi đóng góp của cháu N đều do mẹ cháu là chị Lê Thị D thực hiện. 01 bảng lương để chứng minh thu nhập bình quân của chị D hơn 5.000.000đồng/tháng.
Tại phiên tòa chị Lê Thị D vắng mặt, nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt chị Lê Thị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến phiên tòa hôm nay, thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình và tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.
- Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị D, xử cho chị Lê Thị D được ly hôn anh Tào Văn Đ.
Giao con chung là Tào Văn N – sinh ngày 09/12/2015 (giới tính: Nam) cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Tào Anh K – sinh ngày 29/01/2013 (giới tính: Nam) cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
-Về án phí: Chị Lê Thị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Về quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lê Thị D có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với anh Tào Văn Đ có hộ khẩu thường trú tại xã Q, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Anh Tào Văn Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Các thủ tục đã được tiến hành đảm bảo theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự chứng tỏ anh Đ cố tình trốn tránh. Chị Lê Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Đ không có mặt theo quyết định của Toà án. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị D, anh Đ là đúng theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện V, tỉnh T vào ngày 20/10/2011. Xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nhất từ giữa năm 2023, chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã L, huyện V để sinh sống, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7/2023 đến nay. Chị Lê Thị D xét thấy đến nay tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn nữa nên đề nghị được giải quyết ly hôn anh Đ. Quá trình giải quyết vụ án anh Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến Tòa án làm việc để trình bày quan điểm cũng như tham gia các phiên hòa giải, điều đó thể hiện anh Đ không quan tâm đến việc Tòa án Đg giải quyết vụ án, không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cuộc sống hôn nhân giữa chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ đã thực sự tan vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị D được ly hôn anh Tào Văn Đ là phù hợp.
[3] Về con chung: Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ có 02 con chung tên là Tào Anh K - sinh ngày 29/01/2013 (giới tính: Nam) và Tào Văn N – sinh ngày 09/12/2015 (giới tính: Nam). Hiện nay các con phát triển bình thường về thể lực và trí lực. Từ khi vợ chồng sống ly thân cháu K ở cùng với anh Đ, cháu N ở cùng với chị D. Khi ly hôn chị D có yêu cầu và theo nguyện vọng của các con là giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Tào Anh K, giao cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Tào Văn N. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án không thu thập được nguyện vọng của anh Đ. Tuy nhiên xét điều kiện, hoàn cảnh để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt và phát triển cho các cháu bé, thấy rằng: Chị D và anh Đ đều có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định. Hiện tại cháu Tào Anh K đang được anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; cháu Tào Văn N đang được chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, cuộc sống sinh hoạt và học tập của các cháu đang ổn định. Các cháu phát triển tốt về thể chất cũng như tinh thần. Cháu K có nguyện vọng được ở với bố, cháu N có nguyện vọng được ở với mẹ. Nguyện vọng của chị D và của các con là hoàn toàn chính đáng. Để không làm xáo trộn cuộc sống sinh hoạt, không gây ảnh hưởng đến tâm lý và sự phát triển bình thường của các cháu bé về mọi mặt, cũng như để san sẻ bớt gánh nặng cho chị D, anh Đ và đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho các con. Do đó, giao cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tào Văn N, giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tào Anh K. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau là có căn cứ, phù hợp với quy định tại điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
Chị Lê Thị D, anh Tào Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được ngăn cấm, cản trở và anh, chị có quyền làm đơn xin thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại điều 82 và điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Lê Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Lê Thị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 5, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị D được ly hôn anh Tào Văn Đ.
2. Về con chung:
2.1. Giao con chung là Tào Văn N – sinh ngày 09/12/2015 (giới tính: Nam) cho chị Lê Thị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Tào Anh K – sinh ngày 29/01/2013 (giới tính: Nam) cho anh Tào Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác.
2.2. Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
2.3. Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cấm, cản trở anh, chị thực hiện quyền này và anh, chị có quyền làm đơn xin thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Chị Lê Thị D phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Nhưng chị D đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0004937 ngày 03/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Chị D đã nộp đủ tiền án phí.
Anh Tào Văn Đ không phải nộp tiền án phí HNGĐ sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Chị Lê Thị D và anh Tào Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự và điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 02/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về