Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Q, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2021/TLST-HNGĐ ngày 01/4/2021 về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2021 giữa:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1982; địa chỉ: 36 đường TH, Khu phố 3, phường 3, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh 1979; địa chỉ: 36 đường TH, Khu phố 3, phường 3, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/02/2021, bản trình bày ý kiến ngày 17/6/2021, biên bản hòa giải ngày 08/6/2021, biên bản hòa giải ngày 08/7/2021 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim O trình bày:

Chị Nguyễn Thị Kim O và anh Nguyễn Văn H kết hôn tự nguyện vào năm 2010, đăng ký tại UBND xã T, huyện TP, tỉnh Quảng Trị; Sau khi kết hôn, vợ chồng chị thuê nhà tại địa chỉ 18 Lê Hồng Phong, thị xã Q để ở; Năm 2011, chị sinh cháu Nguyễn Phương Thảo N, vợ chồng phát sinh mâu thuẩn, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung; Anh H thường xuyên nhậu nhẹt vui chơi với bạn bè, sao nhãng việc gia đình, không quan tâm chăm sóc vợ con, lương hàng tháng luôn không tự giác cùng vợ trang trải cuộc sống và trả nợ. Mỗi lần anh H uống rượu về lại xúc phạm, gây gỗ chửi bới chị thậm tệ; con cái đau ốm nhờ bà ngoại, bà nội về chăm sóc, anh H không cảm ơn mà còn nói hỗn với bố mẹ; hai bên gia đình nội ngoại đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh H không thay đổi. Từ khi chị sinh thêm cháu Nguyễn Nguyên K vào năm 2014, mâu thuẩn vợ chồng càng trầm trọng, thậm chí anh H còn đánh đập chị. Tình cảm ngày càng phai nhạt nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2020. Chị thấy không còn tình cảm với anh H; mục đích hôn nhân không đạt được, chị có nguyện vọng được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung: Nguyễn Phương Thảo N, sinh ngày 26/06/2011 và Nguyễn Nguyên K, sinh ngày 16/11/2014. Hiện nay hai cháu đang ở với chị tại khu phố 3, phường 3,thị xã Q. Ly hôn, Chị Nguyễn Thị Kim O có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai cháu; yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng/2 cháu.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên hòa giải ngày 08/6/2021, phiên hòa giải ngày 08/7/2021 và tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Kim O kết hôn vào năm 2010 trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Anh thừa nhận trong cuộc sống vợ chồng bản thân anh có nhiều thiếu sót, chưa quan tâm đến vợ con; do bản tính anh ít nói, nên cũng ít chia sẻ chuyện trò. Vợ chồng tuy có mâu thuẩn nhưng chưa đến mức trầm trọng, chị Oanh có bức xúc nên đã sống ly thân; anh mong chị bỏ qua, cho anh cơ hội để anh sửa chữa sai lầm, cải thiện quan hệ vợ chồng; anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng chăm lo, nuôi dạy con cái.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung : Nguyễn Phương Thảo N, sinh ngày 26/06/2011 và Nguyễn Nguyên K, sinh ngày 16/11/2014. Trường hợp ly hôn, anh H đồng ý giao cho chị Nguyễn Thị Kim O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu Nguyễn Phương Thảo N và Nguyễn Nguyên K;anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/2cháu.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

1. Về mặt tình cảm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 xử cho bà Nguyễn Thị Kim O được ly hôn ông Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81, 82, 83 và 116 Luật HNGĐ, công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng, giao 02 cháu Nguyễn Phương Thảo N và Nguyễn Nguyên Khang cho bà Nguyễn Thị Kim O chăm sóc nuôi dưỡng, ông Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng/02 cháu, cho đến khi mỗi cháu đủ tuổi thành niên và có khả năng lao động.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

- Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bà Nguyễn Thị Kim O và ông Nguyễn Văn H chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Chị Nguyễn Thị Kim O và anh Nguyễn Văn H có đăng ký kết hôn, quá trình chung sống xảy ra mâu thuẩn. Ngày 01/4/2021, chị Nguyễn Thị Kim O có nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh Nguyễn Văn H, cư trú tại: Khu phố 3, phường 3, thị xã Q và giải quyết việc nuôi con chung là quan hệ pháp luật “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Q ( Căn cứ Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự).

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thị xã Q đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự. Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành.Tòa án tiến hành xác minh thu thập nguồn chứng cứ khác để có cơ sở giải quyết vụ án đúng pháp luật. Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/7/2021 mở phiên tòa xét xử vụ án “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định của pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim O và anh Nguyễn Văn H kết hôn vào năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện TP, tỉnh Quảng Trị, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẩn, thường xuyên cải vã, đánh đập, đối xử với nhau thậm tệ. Tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, không thể hàn gắn được. Vợ chồng đã ly thân, không còn quan hệ tình cảm với nhau. Mâu thuẩn vợ chồng kéo dài, mặc dù anh Nguyễn Văn H mong muốn đoàn tụ nhưng không sữa chữa, khắc phục sai lầm làm cuộc sống vợ chồng ngày càng nặng nề . Tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kim O xin ly hôn anh Nguyễn Văn H là có cơ sở, cần chấp nhận ( Điều 56 Luật Hôn nhân Gia đình).

[4] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung: Nguyễn Phương Thảo N, sinh ngày 26/06/2011 và Nguyễn Nguyên K, sinh ngày 16/11/2014. Ly hôn, Chị Nguyễn Thị Kim O có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai cháu và yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng/2con; Anh Nguyễn Văn H cũng đồng ý ly hôn thì giao hai cháu cho chị Oanh chăm sóc nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị Oanh. Hội đồng xét xử thấy rằng:Chị Nguyễn Thị Kim O và anh Nguyễn Văn H đều thống nhất thỏa thuận nếu trường hợp vợ chồng ly hôn thì giao hai cháu Nguyễn Phương Thảo N và Nguyễn Nguyên K cho chị Oanh trực tiếp nuôi dưỡng, anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng/ 2 con; Thỏa thuận của anh H, chị Oanh cũng phù hợp với quy định của pháp luật; phù hợp với nguyện vọng của hai cháu Nguyễn Phương Thảo N và Nguyễn Nguyên K; phù hợp với điều kiện ổn định cuộc sống, học tập, của các cháu cần chấp nhận.( Căn cứ Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình).

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51,56,58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Kim O ly hôn anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Xử công nhận sự thỏa thuận của chị Nguyễn Thị Kim O và anh Nguyễn Văn H giao hai cháu Nguyễn Phương Thảo N, sinh ngày 26/06/2011 và Nguyễn Nguyên K, sinh ngày 16/11/2014 cho chị Nguyễn Thị Kim O được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục ;Anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng/2cháu cho đến khi các cháu đủ tuổi thành niên và có khả năng lao động.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà bên phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền nói trên thì thì hàng tháng còn phải chịu lãi trên số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án cho đến khi thi hành xong.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Nguyễn Thị Kim O phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001545 ngày 01/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q. Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

4. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về