Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con sau khi ly hôn số 04/2022/HNGĐ-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-PT NGÀY 05/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 02/2022/TLPT- HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2022 về việc: "Ly hôn, tranh chấpvề nuôi con khi ly hôn".Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 227/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng có kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1984; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Thôn 1, xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng; có mặt;

- Bị đơn: Anh Đỗ Đăng H1; nơi cư trú: Thôn 5 xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người kháng cáo: Anh Đỗ Đăng H1 là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nộp tại Tòa án ngày 29 tháng 9 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:

Chị Trần Thị H kết hôn với anh Đỗ Đăng H1 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới vào năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng vào ngày 22 tháng 02 năm 2005. Quá trình chung sống vợ cH hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, căng thẳng nhất là năm 2019. Nguyên nhân do tính tình vợ cH không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất. Bản thân anh H1 thường xuyên uống rượu say, chửi bới vợ con. Chị H đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh H1 không thay đổi nên vợ cH thường xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 1, xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng ăn ở và sống ly thân với anh H1, không ai quan tâm đến ai. Mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ cH không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Đăng H1. Chị và anh H1 có 02 con chung tên Đỗ Thị Minh Hải, sinh ngày 17 tháng 02 năm 2005 và Đỗ Đăng Dũng, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2016. Khi ly hôn chị H xin được trực tiếp nuôi hai con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung thig chị H yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi mỗi con chung số tiền là 1.000.000 đồng/tháng x 02 con = 2.000.000 đồng/tháng. Chị và anh H1 tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Đỗ Đăng H1 có nơi cư trú tại thôn 5, xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Quá trình giải quyết vụ án anh Đỗ Đăng H1 không hợp tác, cố tình trốn tránh. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và các văn bản tố tụng vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày về yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Trần Thị H.

Với nội dung vụ án như trên tại Bản án số 227/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 ĐIều 147; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Đỗ Đăng H1.

2. Về con chung: Giao hai con chung tên Đỗ Thị Minh Hải, sinh ngày 17 tháng 02 năm 2005 và Đỗ Đăng Dũng, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2016 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi có mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đỗ Đăng H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Trần Thị H mỗi tháng số tiền là 1.000.000 đồng/con x 02 con = 2.000.000 đồng/tháng (Hai triệu đồng), kể từ tháng 01 năm 2022 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày chị Trần Thị H có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chung, nếu anh Đỗ Đăng H1 chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15 tháng 12 năm 2021, anh Đỗ Đăng H1 có đơn kháng cáo với nội dung đối với một phần bản án sơ thẩm về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung, đề nghị giao con chung Đỗ Đăng Dũng sinh ngày 17 tháng 10 năm 2016 cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung tên Đỗ Thị Minh Hải, sinh ngày 17 tháng 02 năm 2005 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Không bên nào có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bị đơn trình bày: Tôi kháng cáo đối với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện TN, đề nghị Tòa án giao cho tôi được nuôi cháu Đỗ Đăng Dũng, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2016. Lý do là cháu còn nhỏ, tôi có nhà ở ổn định nên muốn được nuôi cháu, chăm lo cho cháu ăn học. Vì mỗi người nuôi 01 con nên đối với tiền cấp dưỡng nuôi con không bên nào có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Nguyên đơn trình bày: Cháu Dũng còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của mẹ. Tôi cũng có nhà ở ổn định. Anh H1 không có công ăn việc làm, hàng tháng phải xin tiền của con gái lớn 5 triệu đồng, không đảm bảo cho việc nuôi con. Tôi không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của anh H1.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bị đơn, thấy: Chị H có công việc làm, thu nhập cao và ổn định hơn anh H1 (anh H1 làm nghề đánh bắt cá); theo chị H trình bày là anh H1 thường xuyên uống rượu say, đánh chửi các con; anh H1 cũng thừa nhận việc anh H1 ngăn cản việc chị H được thăm nuôi, chăm sóc con. Anh H1 có hai con riêng hiện đang sống cùng anh H1. Chị H gửi kèm chứng cứ là 06 ảnh về việc cháu Dũng bị đánh, bị nhốt trong chuồng gà và tin nhắn của cháu Minh Hải về việc “muốn chết” để chứng minh việc nuôi dạy của anh H1 là không đảm bảo. Bên cạnh đó, cần tôn trọng nguyện vọng của cháu Minh Hải muốn được ở với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi và điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung trưởng thành, phát triển bình thường, việc Tòa án sơ thẩm xử giao 02 con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Đỗ Đăng H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do nội dung kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và sau khi tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về thẩm quyền: Bị đơn anh Đỗ Đăng H1 có nơi cư trú tại huyện TN, Tòa án nhân dân huyện TN xét xử sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo về con chung của anh Đỗ Đăng H1: Cị Trần Thị H và anh Đỗ Đăng H1 có 02 con chung là Đỗ Thị Minh Hải, sinh ngày 12 tháng 02 năm 2015 và Đỗ Đăng Dũng, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2016. Khi ly hôn chị H đề nghị được trực tiếp nuôi hai con chung. Xét điều kiện chăm sóc con chung của hai bên: Về chỗ ở: Chị H hiện đang ở nhà bố mẹ đẻ tại thôn 1, xã Gia Đức, huyện TN, thành phố Hải Phòng; anh H1 ở nhà riêng của anh và chị H và hiện có hai con riêng của anh ở cùng. Về công việc và thu nhập: Chị H hiện là công nhân Vship, thu nhập của chị H trung bình là 8.000.000 đồng/tháng. Anh H1 là người lao động tự do (làm nghề đánh bắt cá), song thu nhập không ổn định. Như vậy, chị H có nơi ở ổn định, công việc và thu nhập đảm bảo hơn cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

[3] Về việc chăm sóc, nuôi dạy con: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, anh H1 đã có hành vi nhốt cháu Đỗ Đăng H1 vào chuồng gà và trên người cháu có nhiều vết hằn đỏ ở chân và tay. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh H1 thừa nhận có sự việc trên là do cháu nghịch ngợm, anh chỉ nhốt vào chuồng gà khoảng 1 phút cho cháu bớt nghịch. Ngoài ra có tài liệu thể hiện tin nhắn của con gái là cháu Đỗ Thị Minh Hải cầu cứu mẹ. Qua đó thể hiện anh H1 không có phương pháp giáo dục con đúng đắn, ảnh hưởng đến tinh thần và thể chất của hai con chung. Tại phiên tòa, anh H1 cững thừa nhận việc anh H1 ngăn cản không đồng ý cho chị H được thăm nom, chăm sóc con chung. Như vậy, việc anh H1 nuôi con là chưa đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con chung. Cháu Đỗ Thị Minh Hải có đơn trình bày nếu bố mẹ ly hôn thì cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Cháu Đố Đăng Dũng chưa đủ 6 tuổi, ở độ tuổi còn non nớt và cần sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của mẹ. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên giao cả hai con chung cho chị Trần Thị H là đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho con chung, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mỗi bên và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị H yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi hai con chung số tiền 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp.

[5] Từ những phân tích nêu trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh Đỗ Đăng H1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Về án phí dân sự: Anh Đỗ Đăng H1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 227/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Đỗ Đăng H1.

2. Về con chung: Giao hai con chung tên Đỗ Thị Minh Hải, sinh ngày 17 tháng 02 năm 2005 và Đỗ Đăng Dũng, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2016 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi có mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đỗ Đăng H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Trần Thị H mỗi tháng số tiền là 1.000.000 đồng/con x 02 con = 2.000.000 đồng/tháng (Hai triệu đồng), kể từ tháng 01 năm 2022 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày chị Trần Thị H có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chung, nếu anh Đỗ Đăng H1 chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm:

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007504 ngày 04 tháng 10 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN, thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Đỗ Đăng H1 phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 15 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN, thành phố Hải Phòng, anh H1 đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con sau khi ly hôn số 04/2022/HNGĐ-PT

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về