Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 99/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 99/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 292/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2022/QĐXX-ST ngày 08 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thu H - Sinh năm 1987 “Có mặt”

Bị đơn: Anh Đỗ Việt L - Sinh năm 1990 “Vắng mặt”

Cùng địa chỉ: Ngõ 284 Q, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Thu H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Đỗ Việt L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do UBND phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa cấp vào ngày 29/4/2009. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, anh L lại dính vào tệ nạn xã hội, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay, mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Việt L.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Đỗ Việt A, sinh ngày 05/01/2009 và cháu Đỗ Lê Huyền A sinh ngày 25/02/2013. Chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản công nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn là anh Đỗ Việt L theo quy định của pháp luật nhưng anh L không đến Toà án để tự khai cũng như tham gia phiên hoà giải mặc dù đã nhận được các thông báo hợp lệ.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Anh L hiện đang cư trú tại số nhà 07 B Trịnh Thị Ngọc Trúc, phường Dông Vệ, tuy nhiên anh L thường đi lang thang đến đêm khuya mới về. Quá trình chị H và anh L sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, và nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm được, vì anh chị không thể hiện mâu thuẫn ra bên ngoài, chị H có trình bày là do anh L không tu chí làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình. Nay chị H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Anh chị có hai con chung, nếu anh chị ly hôn, việc giao con cho ai nuôi dưỡng và cấp dưỡng như thế nào đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết. Tuy nhiên đề nghị Tòa án xem xét đến điều kiện do anh L không có việc làm ỏn định, hai cháu đang ở với chị H, chị H làm việc ở Công ty có thu nhập ổn định.

Về tài sản và công nợ: Địa phương không nắm được anh chị có tài sản và công nợ gì nên không cung cấp cho Tòa án được.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án giải quyết chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị Thu H. Xét xử theo hướng: Xử cho chị Lê Thị Thu H được ly hôn anh Đỗ Việt L. Giao cháu Đỗ Việt A và cháu Đỗ Lê Huyền A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị H phải nộp án phí Dân sự sở thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Đỗ Việt L lần thứ hai nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do. Chị H đề nghị Tòa án tiến hành xét xử theo quy định. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh L là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Thu H và anh Đỗ Việt L kết hôn với nhau cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Sáu tha thiết xin được ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa chị H và anh L đã đến mức trầm trọng, anh L không đến Tòa án để trình bày về quan hệ hôn nhân giữa anh và chị H để Tòa án tiến hành hòa giải, điều đó chứng tỏ anh L cũng không có thiện chí để đoàn tụ. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh L là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Đỗ Việt A, sinh ngày 05/01/2009 và cháu Đỗ Lê Huyền A sinh ngày 25/02/2013. Chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

HĐXX xét thấy: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh L không đến Tòa án để giải quyết và không thể hiện việc anh L có nguyện vọng nuôi con hay không, trong khi cả hai cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó để đảm bảo cuộc sống cho con chưa thành niên, cần giao cháu Việt A và cháu Huyền A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con, việc không yêu cầu cấp dưỡng của chị H là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Thu H được ly hôn anh Đỗ Việt L.

Về con: Công nhận cháu Đỗ Việt Anh, sinh ngày 05/01/2009 và cháu Đỗ Lê Huyền A sinh ngày 25/02/2013 là con chung của chị H và anh L. Giao cháu Đỗ Việt A và cháu Đỗ Lê Huyền A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đỗ Việt L có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Lê Thị Thu H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001907 ngày 17/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị H đã nộp đủ án phí).

Chị Lê Thị Thu H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Đỗ Việt L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 99/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:99/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về