TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 15 tháng 10 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 220/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 191/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu H – sinh ngày xx/xx/19xx;
Nơi cư trú: Thôn M2, xã D, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh – vắng mặt (có đơn xin xử án vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V – sinh ngày xx/x/19xx;
Nơi cư trú: Tổ 12, khu 7, phường X, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, lời tự khai và đơn xin xử án vắng mặt tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Thu H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn V trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn hợp pháp vào ngày 05/10/2016 tại Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn với anh V, anh chị có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 03 tháng, chị chưa từng có chồng còn anh V cũng đã ly hôn với vợ trước vào đầu năm 2016.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chị ra thuê phòng trọ của bà Nguyễn Thị M ở tổ x, khu x, phường C, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh chung sống.
Ngay từ thời gian đầu chung sống với nhau anh chị đã không được hạnh phúc do vợ chồng thường xuyên có nhiều ý kiến bất đồng, không hợp nhau. Đến sau khi sinh con vào cuối tháng 12/2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do anh V mải chơi, không tu chí làm ăn để lo cho vợ con, gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, thậm chí còn đánh nhau làm mất trật tự tại tổ dân khu phố và khu phòng trọ.
Anh chị đã có lần nói chuyện với nhau để tìm cách khắc phục mâu thuẫn vợ chồng, hàn gắn lại hạnh phúc gia đình nhưng không thành vì không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn của vợ chồng chị cũng đã được 02 bên gia đình hoà giải nhưng không thành.
Do thấy cuộc sống chung đầy áp lực và căng thẳng nên đến khoảng tháng 6/2020, chị đã về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ của chị tại thôn M2, xã D, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh, chị và anh V sống ly thân với nhau từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị chỉ biết là hiện nay anh V vẫn sống tại nhà bố đẻ và bà nội của anh ấy tại tổ xx, khu x, phường X, thành phố L, Quảng Ninh.
Đến nay, tình cảm của chị dành cho anh V không còn và mâu thuẫn giữa hai vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn V.
Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị và anh V sinh được 01 con chung là Nguyễn Trung Q - sinh ngày xx/xx/20xx. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, con chung ở chị. Khi ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Chị và anh V không có tài sản chung.
Về công nợ chung: Không có.
Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn anh Nguyễn Văn V nhiều lần nhưng anh V cố tình vắng mặt nên không lấy được lời khai của anh V.
Tòa án nhân dân thành phố L đã tiến hành xác minh tại tổ xx, khu x, phường X, thành phố L và tổ x, khu x, phường C, thành phố L thể hiện: Quá trình sinh sống tại địa phương, vợ chồng chị H, anh V có xảy ra mâu thuẫn, lục đục trong tình cảm vợ chồng, nguyên nhân là do anh V mải chơi bời cờ bạc, cá độ bóng đá dẫn đến tiêu tán tài sản gia đình, vợ chồng cãi chửi nhau làm mất trật tự tại địa bàn dân cư. Ông Nguyễn Văn Chung là bố đẻ của anh V có quan điểm: Chị H đã có đơn xin ly hôn với anh V thì đề nghị Tòa án giải quyết để giải thoát cho cả hai vì mâu thuẫn giữa chị H và anh V diễn ra đã lâu, hiện nay mỗi người ở một nơi, không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ; về con chung của anh V và chị H sẽ theo khả năng của hai người, ai có điều kiện thì trực tiếp nuôi dưỡng, không nên phát sinh tranh chấp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là không chấp hành các quy định của pháp luật, chưa thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xét thấy có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, yêu cầu về nuôi dưỡng con chung của chị Trần Thị Thu H, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị Thu H yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Văn V, anh V có địa chỉ cư trú trên địa bàn thành phố L nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết với quan hệ pháp luật “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình” là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn V được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do, sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án nhân dân thành phố L đã tống đạt hợp lệ cho anh V nhưng anh V cố tình không tham gia tố tụng theo quy định và cũng không có người đại diện tham gia tại phiên tòa; chị Trần Thị Thu H là nguyên đơn có đơn xin xử án vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Văn V là hợp pháp, được Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh cấp Giấy chứng nhận kết hôn tháng 10/2016. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, theo chị H nguyên nhân chính là do anh V mải chơi, không tu chí làm ăn để lo cho vợ con, gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, thậm chí còn đánh nhau làm mất trật tự tại tổ dân khu phố và khu phòng trọ. Lời khai của chị H về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn phù hợp với kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng quan hệ hôn nhân của chị H và anh V tại nơi chị H, anh V chung sống nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có cơ sở chấp nhận. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh V đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Thu H đối với anh Nguyễn Văn V.
[3] Về con chung: Chị H và anh V sinh được 01 con chung là Nguyễn Trung Q - sinh ngày xx/xx/20xx. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, con chung ở chị H. Khi ly hôn, chị H xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng cho con vì hiện nay chị có công việc, thu nhập ổn định cộng thêm sự giúp đỡ từ bố mẹ đẻ của chị nên có đủ điều kiện đảm bảo cho việc nuôi dưỡng con. Đối với anh V, quá trình giải quyết vụ án đều không có mặt nên không thể hiện được quan điểm gì và cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho điều kiện nuôi dưỡng con chung.
Hội đồng xét xử thấy nên giao con Nguyễn Trung Q cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo cho việc phát triển toàn diện của con chung, phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Chị H xác định chị và anh V không có tài sản chung và công nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Thu H được ly hôn với anh Nguyễn Văn V.
2. Về con chung: Chị Trần Thị Thu H có quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là: Nguyễn Trung Q - sinh ngày xx/xx/20xx cho đến khi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Nguyễn Văn V không phải cấp dưỡng cho con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền này được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 000xxxx ngày xx tháng x năm 20xx của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Quảng Ninh. Chị Trần Thị Thu H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Trần Thị Thu H và bị đơn anh Nguyễn Văn V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết tại nơi cư trú
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 99/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 99/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về