Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 97/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 97/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 70/2022/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn M, xã P, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

2/ Bị đơn: Anh Phạm Quốc S, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn M, xã P, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N trình bày: Chị và anh Phạm Quốc S tự nguyện tìm hiểu đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Xuân II, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam vào năm 2011. Trong thời gian chung sống vợ chồng chị luôn xảy ra nhiều bất đồng, mâu thuẫn do vợ chồng không có tiếng nói chung, hay cãi vã, đánh đập. Anh S thường xuyên nhậu nhẹt, ghen tuông, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mỗi người sống mỗi nơi, phần ai nấy sống không quan tâm đến nhau. Nay chị không còn tình cảm với anh S nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Quốc S.

Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Phạm Ngọc T, sinh ngày 02/10/2012. Khi ly hôn chị thống nhất giao cháu T cho anh S nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn anh Phạm Quốc S trình bày: Anh và chị N tự nguyện tìm hiểu và đến với nhau, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Xuân II, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam vào năm 2011. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng cự cãi, xô xát. Trước đây vợ chồng sống chung nhà tại xã Tam Xuân II, huyện Núi Thành. Sau khi mâu thuẫn xảy ra anh về quê sinh sống tại thôn M, xã P, huyện N. Nay chị N làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn.

Về nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Phạm Ngọc T, sinh ngày 02/10/2012. Khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu T thành niên và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Nếu chị N nuôi thì anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng; Nguyên đơn và bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thúy N. Về hôn nhân: Áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Nguyễn Thị Thúy N và anh Phạm Quốc S ly hôn. Về nuôi con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Phạm Ngọc T cho anh S nuôi dưỡng, chị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung . Về chia tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét. Về nợ chung: Chị N và anh S đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thúy N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và yêu cầu giải quyết về nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Phạm Quốc S có nơi cư trú tại thôn M, xã P, huyện N, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung vụ án

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thúy N với anh Phạm Quốc S tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Xuân II, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam vào năm 2011 là hôn nhân hợp pháp. Chị N cho rằng trong thời gian chung sống vợ chồng chị luôn xảy ra nhiều bất đồng, mâu thuẫn do vợ chồng không có tiếng nói chung, hay cãi vã, đánh đập. Anh S thường xuyên nhậu nhẹt, ghen tuông, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mỗi người sống mỗi nơi, phần ai nấy sống không quan tâm đến nhau. Nay chị không còn tình cảm với anh S nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Quốc S. Anh S cho rằng Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng cự cãi, xô xát. Trước đây vợ chồng sống chung nhà tại xã Tam Xuân II, huyện Núi Thành. Sau khi mâu thuẫn xảy ra anh về quê làm ăn sinh sống tại thôn M, xã P, huyện N. Nay chị N làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án anh S không tích cực tìm hướng thuyết phục chị N quay về chung sống, xây dựng gia đình.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh S thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị N và anh S có 01 con chung là Phạm Ngọc T, sinh ngày 02/10/2012. Khi ly hôn chị N đồng ý giao cháu T cho anh S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), chị không cấp dưỡng nuôi con chung. Khi ly hôn anh S có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu T đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi) và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu T có nguyện vọng được ở với cha. Để có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu T trưởng thành, phát triển tốt về mọi mặt. Hội đồng xét xử có cơ sở giao cháu T cho anh S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dường và giáo dục đến khi cháu T thành niên (Đủ 18 tuổi) là phù hợp.

[2.3] Về chia tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Chị N và anh S đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thúy N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội khoá XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thúy N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thúy N và anh Phạm Quốc S ly hôn.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Phạm Ngọc T, sinh ngày 02/10/2012 cho anh Phạm Quốc S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi). Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thúy N phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0010413 ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Chị N đã nộp xong tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (04/8/2022) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 97/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:97/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Ninh - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về