Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 86/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 86/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 20/2022/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Cao Thị Mỹ T, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn A, xã L, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

2/ Bị đơn: Anh Ngô Văn T, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Cao Thị Mỹ T trình bày: Chị và anh Ngô Văn T tự nguyện tìm hiểu xây dựng gia đình, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Thành, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam vào năm 2015. Trong quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt uống rượu về gây gỗ, đánh đập chị nhiều lần, dùng lời lẽ xúc phạm đến danh dự chị, nhưng con còn quá nhỏ nên chị cố gắng chị đựng. Năm 2015 anh T vi phạm pháp luật bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử với mức án là 20 năm tù về tội giết người, hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam Đ thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Từ những mâu thuẫn và việc làm mà anh T gây ra làm cho tinh thần chị bị suy sụp. Nay chị không còn tình cảm gì với anh T nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T để chị ổn định tinh thần làm ăn nuôi con.

Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Ngô Gia B, sinh ngày 30/10/2014. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại bản tự khai, Biên bản lấy lời khai của đương sự bị đơn anh Ngô Văn T trình bày: Anh và chị Cao Thị Mỹ T tự nguyện kết hôn năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Thành, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xã T, huyện N. Năm 2015 anh bị bắt tạm giam về hành vi giết người, bị Tòa án xét xử với mức án 20 năm tù, hiện đang chấp hành án tại Trại giam Đ nên hai vợ chồng không còn chung sống với nhau từ đó đến nay. Những năm đầu chị T thăm nuôi đều đặn, nhưng do dịch bệnh Covid 19, hai năm gần đây chị T không thăm nuôi nữa. Cuối năm 2020 anh nhận được thư chị T gửi đến đề cập việc ly hôn. Nay chị T làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh thấy vợ chồng không có mâu thuẫn, cải cọ gì nên anh không đồng ý ly hôn.

Về nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Ngô Gia B, sinh ngày 30/10/2014. Khi ly hôn anh đồng ý giao con cho vợ nuôi, anh không cấp dưỡng nuôi con vì không có điều kiện.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Ninh tham gia phiên tòa: Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng; Nguyên đơn và bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Cao Thị Mỹ T.

Về hôn nhân: Áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Cao Thị Mỹ T và anh Ngô Văn T ly hôn. Về nuôi con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Ngô Gia B cho chị T nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về chia tài sản chung, nợ chung: Hai bên đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Cao Thị Mỹ T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và yêu cầu giải quyết về nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Ngô Văn T cư trú tại thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự [2].

VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Mỹ T víi anh Ngô Văn T tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Thành, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam vào năm 2015 là hôn nhân hợp pháp. Chị T cho rằng trong quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt uống rượu về gây gỗ, đánh đập chị nhiều lần, dùng lời lẽ xúc phạm đến danh dự chị, nhưng con còn quá nhỏ nên chị cố gắng chị đựng. Năm 2015 anh T vi phạm pháp luật bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử với mức án là 20 năm tù về tội giết người, hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam Đ thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Từ những mâu thuẫn và việc làm mà anh T gây ra làm cho tinh thần chị bị suy sụp. Nay chị không còn tình cảm gì với anh T nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T để chị ổn định tinh thần làm ăn nuôi con. Anh T cho rằng trong thời gian chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn, cải cọ gì nên anh không đồng ý ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án chị T và anh T đều không yêu cầu Tòa án tiến hành hòa giải. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị T với anh T và việc làm của anh T mà chị T trình bày thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị T và anh T có 01 con chung là Ngô Gia B, sinh ngày 30/10/2014. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Khi ly hôn anh T đồng ý giao con cho chị T nuôi, anh không có điều kiện cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu B hiện nay đã gần đủ 08 tuổi và cháu có nguyện vọng được ở với mẹ nên Hội đồng xét xử có cơ sở cháu giao cháu B cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu B thành niên (Đủ 18 tuổi) là phù hợp. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh T đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Cao Thị Mỹ T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội khoá XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Cao Thị Mỹ T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Mỹ T và anh Ngô Văn T ly hôn.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Ngô Gia B, sinh ngày 30/10/2014 cho chị Cao Thị Mỹ T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi). Anh Ngô Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Chị Cao Thị Mỹ T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số:

0010350 ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Chị T đã nộp xong tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (14/7/2022). Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 86/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:86/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Ninh - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về