Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 85/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 85/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 20 21 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 47/2021/TLST-HNGĐ ngày 0 7 tháng 4 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXX-ST ngày 24 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên toà số 488/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Thị B, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Bản Liên H, xã Cam L, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Chị B có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Kha Văn H, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Bản D, xã Châu Kh, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 22/3/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn chị Lương Thị B trình bày:

- Về tình cảm: Giữa chị và bị đơn anh Kha Văn H kết hôn với nhau vào ngày 24 tháng 01 năm 2013 tại UBND xã Châu Kh, huyện Con Cuông, tinh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên xích mích, cãi vã, xúc phạm nhau, đã nhiều lần anh H đánh đập chị. Nguyên nhân là do anh H thường xuyên cờ bạc, rượu chè, ghen tuông vô cớ, đã nhiều lần chị khuyên nhủ nhưng anh vẫn chứng nào tật ấy không chịu thay đổi. Việc mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, vì vậy mà từ tháng 6/2019 cho đến nay vợ chồng chị không còn sống chung với nhau nữa. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với bị đơn anh Kha Văn H.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị có một người con chung tên là Kha Bảo Ph, sinh ngày 25/8/2012. Hiện nay cháu Ph đang sống với anh H tại Bản D, xã Châu Kh, huyện Con Cuông. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị và anh Kha Văn H thỏa thuận tự chia không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng chị không vay nợ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/6/2021 cháu Kha Bảo Ph có nguyện vọng được ở với bố.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, bị đơn anh Kha Văn H vắng mặt mặc dầu đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nên Toà án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hôi đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình: Về hôn nhân: chấp nhận đơn ly hôn của chị Lương Thị B. Buộc chị Lương Thị B và anh Kha Văn H chấp dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về con: giao con chung Kha Bảo Ph cho anh Kha Văn H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ph trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Lương Thị B; Về tài sản: chị Lương Thị B và anh Kha Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; Về án phí: chị Lương Thị B phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn: bị đơn hiện cư trú tại Bản D, xã Châu Kh, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lương Thị B có đơn xin xét xử vắng, bị đơn anh Kha Văn H đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227, 228 và 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chưa thành niên khi ly hôn nên theo quy định, Tòa án xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp tại UBND xã Châu Kh, huyện Con Cuông là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét chị Lương Thị B và anh Kha Văn H đăng ký kết hôn vào ngày 24 tháng 01 năm 2013 tại UBND xã Châu Kh, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy hôn nhân giữ chị B và anh H là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc cho đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị B nguyên nhân mâu thuẫn do anh H thường xuyên cờ bạc, rượu chè bê tha, ghen tuông vô cớ. Vì vậy mà hiện nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chị B và anh H đã vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng, không sống chung với nhau mà không có lý do chính đáng.

Tại phiên tòa anh H vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy giữa vợ chồng chị B và anh H thường xuyên xẩy ra mâu thuân do anh H tường xuyên cờ bạc, rượu chè. Vì vậy mà hai vợ chồng đã không còn sống chung với nhau nữa.

Xét thấy, giữa chị B và anh H mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì thế cần cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, xử cho chị Lương Thị B được ly hôn với anh Kha Văn H.

Về con chung: Chị B và anh H có một con chung tên là Kha Bảo Ph, sinh ngày 25/8/2012. Hiện cháu đang sống với anh H, quá trình giải quyết vụ kiện chị B yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con, tuy nhiên trong đơn xin xét xử vắng mặt chị B đề nghị Toà án giải quyết giao con chung cho anh H trực tiếp nuôi và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con vì điều kiện hoàn cảnh của chị hiện nay khó khăn không đảm bảo chăm sóc cho cháu được. Xét thấy khi cha, mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về vật chất và tinh thần. Như vậy nguyện vọng của chị B là chính đáng, thể hiện tinh thần và trách nhiệm của người mẹ dành cho con, và cũng phù hợp với nguyện vọng của con. Mặt khác qua xác minh hiện nay cháu Ph đang ở ổn định với anh H và được anh chăm sóc nuôi dưỡng rất tốt. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận giao con chung là Kha Bảo Ph cho anh H trược tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ph trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Lương Thị B.

Về tài sản chung: Do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Lương Thị B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207, 227, 228, 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lương Thị B được ly hôn anh Kha Văn H.

- Về con chung: Giao con chung Kha Bảo Ph, sinh ngày 25/8/2012 cho anh Kha Văn H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ph tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Lương Thị B.

Chị B có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh chị B lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Anh H cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Lương Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị B đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002393 ngày 07 tháng 4 năm 2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 85/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:85/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về