Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 84/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2022/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; cư trú tại thôn M, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Vũ Văn T1; cư trú tại thôn M, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn T1 kết hôn với nhau do tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 01 tháng 11 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại thôn M, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp nên xảy ra cãi vã nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên ngăn, hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả mà ngày càng căng thẳng, trầm trọng, không có khả năng khắc phục. Do mâu thuẫn căng thẳng nên đầu năm 2021, chị Nguyễn Thị T đã thuê nhà ở cùng thôn, sống ly thân với anh Vũ Văn T1; hiện tại vợ chồng không còn quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay chị Nguyễn Thị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn T1.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Vũ Văn Phát T2 - sinh ngày 20 tháng 7 năm 2008 và Vũ Văn Tuấn T3 - sinh ngày 05 tháng 8 năm 2012. Ly hôn chị Nguyễn Thị T đề nghị Tòa án giao con chung Vũ Văn Phát T2 cho anh Vũ Văn T1 trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Vũ Văn Tuấn T3 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn T1 tự thỏa thuận, tạm thời không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Đối với bị đơn anh Vũ Văn T1, trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh Vũ Văn T1 đều vắng mặt không có lý do nên không có quan điểm của anh Vũ Văn T1 trước yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nhiều lần, không có lý do nên đã không chấp hành các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn T1; về con chung, giao con chung Vũ Văn Tuấn T3 - sinh ngày 05 tháng 8 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Vũ Văn Phát T2 - sinh ngày 20 tháng 7 năm 2008 cho anh Vũ Văn T1 trực tiếp nuôi dưỡng; thời hạn nuôi con chung tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật; về việc cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Do đương sự tạm thời không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền xét xử vụ án và việc xét xử vắng mặt của các đương sự: Bị đơn, anh Vũ Văn T1 có nơi cư trú tại thôn M, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện A. Chị Nguyễn Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Vũ Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai nên căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của nguyên đơn, các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn T1 kết hôn với nhau do tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 01 tháng 11 năm 2007. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp; hiện tại đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn T1 đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn T1.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn T1 có 02 con chung Vũ Văn Phát T2 - sinh ngày 20 tháng 7 năm 2008 và Vũ Văn Tuấn T3 - sinh ngày 05 tháng 8 năm 2012. Ly hôn chị Nguyễn Thị T có quan điểm đề nghị Tòa án giao con chung Vũ Văn Tuấn T3 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Vũ Văn Phát T2 cho anh Vũ Văn T1 trực tiếp nuôi dưỡng; anh Vũ Văn T1 vắng mặt, không có quan điểm về việc nuôi con chung. Việc nuôi con chung vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ nên giao con chung cho ai nuôi dưỡng cũng phải đảm bảo con chung được nuôi dạy và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Xét thấy điều kiện nuôi con chung của hai bên là ngang nhau nên để con chung có cuộc sống ổn định sau khi ly hôn, cần giao con chung Vũ Văn Tuấn T3 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Vũ Văn Phát T2 cho anh Vũ Văn T1 trực tiếp nuôi dưỡng, phù hợp với nguyện vọng của các con chung.

[4] Ly hôn chị Nguyễn Thị T có quan điểm việc cấp dưỡng nuôi con sẽ do chị và anh Vũ Văn T1 tự thỏa thuận, tạm thời không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét quan điểm chị Nguyễn Thị T đưa ra là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận, Tòa án không xem xét, giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản: Do các đương sự không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết. Nếu các bên đương sự có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung hoặc về tài sản, Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi đương sự có yêu cầu.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 143, 147, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn T1.

2. Về con chung: Giao con chung Vũ Văn Phát T2 - sinh ngày 20 tháng 7 năm 2008 cho anh Vũ Văn T1 trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Vũ Văn Tuấn T3 - sinh ngày 05 tháng 8 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung do các đương sự tạm thời không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Chị Nguyễn Thị T đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (theo Biên lai thu tiền số 0002604 ngày 31 tháng 5 năm 2022) nên không phải nộp nữa.

Các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:84/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về