Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 83/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN 

BẢN ÁN 83/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 530/2022/TLST-HNGĐ  ngày 05 tháng 7 năm 2022 về “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2022/QĐXX-ST ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương  sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Thôn M, xã B, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.

Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1978 (vắng mặt)  Địa chỉ: Khu phố X, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/6/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị Thanh T trình bày: Bà và ông Nguyễn Ngọc Th tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân. Vợ chồng chung sống vào năm 2015, đến năm 2016 vợ chồng đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 01/11/2016. Vợ chồng không tổ chức cưới hỏi. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 12/2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do chồng bà thường xuyên ăn nhậu rồi về la mắng vợ con, thỉnh thoảng có đánh bà, không biết quan tâm chăm sóc cho gia đình cũng như không có trách nhiệm lo lắng cho con. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12/2016 cho đến nay, thời gian sống ly thân vợ chồng không có liên lạc gì với nhau, không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Nay bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông Th, do đó bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với chồng bà là ông Nguyễn Ngọc Th.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 24/8/2016. Từ khi vợ chồng ly thân thì bà là người trực tiếp nuôi dưỡng bé T1 và hiện bé T1 đang ở cùng bà. Trong suốt 06 năm qua, ông Th và con chưa một lần gặp nhau, ông Th cũng không phụ giúp gì cho bà về mặt kinh tế để lo cho con. Ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Tại buổi hòa giải ngày 22/8/2022 và tại phiên tòa hôm nay, bà không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con vì hiện nay bà đang làm nghề uốn tóc, thu nhập hàng tháng 5.000.000 đồng đủ khả năng để nuôi con và chăm sóc đầy đủ cho con.

Tài sản chung và nợ chung: Bà xác định không có.

Bị đơn ông Nguyễn Ngọc Th đã được Tòa án Thông báo và niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ theo đúng quy định pháp luật để ông Th thực hiện quyền nghĩa vụ của mình, nhưng ông Th từ chối tham gia tố tụng, nên Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai ghi nhận ý kiến của ông Th đối với các yêu cầu khởi kiện của bà T.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:

Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Th vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Ngọc Th.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu của nguyên đơn là có căn  cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều  81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe đương sự trình bày ý kiến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Phạm Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Th và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi  con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại phường Đ, thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Tại đơn khởi kiện ngày 30/6/2022 nguyên đơn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 24/8/2016 và yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Tại phiên hòa giải ngày 22/8/2022 và tại phiên tòa, bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể bà không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc thay đổi này không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu; căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[1.3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy báo lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng ông Th vẫn vắng mặt không có lý do; Điều này chứng tỏ ông Th đã từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227  Bộ luật Tố tụng  dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Thanh T và ông Nguyễn Ngọc Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân phường  Đ, thành  phố  P,  tỉnh  Ninh  Thuận  cấp  giấy  chứng  nhận  kết  hôn  số  180  ngày  01/11/2016, đây là hôn nhân hợp pháp.

Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Do có mâu thuẫn về việc ông Th thường xuyên ăn nhậu, không biết quan tâm chăm sóc cho gia đình nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vả, từ tháng 12/2016 cho đến nay vợ chồng ông Th bà T không còn chung  sống với nhau. Từ khi ly thân, vợ chồng không còn liên lạc với nhau, mạnh ai nấy sống, không gặp gỡ và cũng không ai đặt vấn đề đoàn tụ.

Tại biên bản xác minh ngày 27/7/2022 và ngày 22/8/2022 của TAND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm thể hiện ông Nguyễn Ngọc Th có đăng ký hộ khẩu tại khu phố X, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận, còn bà Phạm Thị Thanh T  không đăng ký hộ khẩu tại địa phương. Vợ chồng ông Th bà T không sống cùng nhau, hiện ông Th đang sống một mình, thường xuyên đi biển, ít có mặt tại địa phương, thỉnh thoảng mới về.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án niêm yết và tống đạt hợp  lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Th không tham gia tố tụng, không cung cấp ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của bà T; điều này chứng tỏ ông Th có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa ông Th và bà T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 24/8/2016. Bà T có yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông Th cấp  dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu T1 từ trước đến nay đều sống với bà T và được bà T  chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà T có nghề nghiệp, có thu nhập và chỗ ở ổn định để nuôi con nên Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Ngọc T1 cho bà Phạm Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Ngọc Th không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không có, nên Hội đồng xét   xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà Phạm Thị Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4  Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Thanh  T.

1. Về hôn nhân: Bà Phạm Thị Thanh T được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Th.

2. Về con chung: Giao cho bà Phạm Thị Thanh T được quyền trực tiếp nuôi  dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 24/8/2016. Ông Nguyễn Ngọc Th không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con do bà Phạm Thị Thanh T không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con, lạm dụng việc  thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Phạm Thị Thanh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)  án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0004287 ngày 30/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Phạm Thị Thanh T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 83/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:83/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về