Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 82/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 82/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 20 21 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 35 /2021/TLST-H N G Đ ngày 23 tháng 02 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2021/QĐXX-ST ngày 24 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 490/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị L, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Bản P, xã Châu Q, huyện Quỳ H, tỉnh Nghệ An. Chị L có mặt tại phiên toà.

2. Bị đơn: Anh Lang Văn V, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Bản Kẻ S, xã Mậu Đ, huyện C, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 23/3/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn chị Trương Thị L trình bày:

- Về tình cảm: Giữa chị và bị đơn anh Lang Văn V kết hôn với nhau vào ngày 25 tháng 6 năm 2018 tại UBND xã Châu Q, huyện Quỳ H, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến tháng 8/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau, đánh đập nhau. Nguyên nhân là do quan điểm, tính cách không phù hợp, anh V thường xuyên ghen tuông vô cớ, không tin tưởng vào sự chung thuỷ của chị. Việc mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, vì vậy mà từ tháng 11/2020 cho đến nay vợ chồng chị không còn sống chung với nhau nữa. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với bị đơn anh Lang Văn V.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị có một người con chung tên là Lang Gia B, sinh ngày 09/6/2019. Hiện nay cháu B đang sống với chị tại Bản P, xã Châu Q, huyện Quỳ H. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị và anh Lang Văn V thỏa thuận tự chia không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng chị không vay nợ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, bị đơn anh Lang Văn V vắng mặt mặc dầu đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nên Toà án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hôi đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình: Về hôn nhân: chấp nhận đơn ly hôn của chị Trương Thị L. Buộc chị Trương Thị L và anh Lang Văn V chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về con: giao con chung Lang Gia B cho chị Trương Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu B trưởng thành, tạm hoan việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Lang Văn V; Về tài sản: chị Trương Thị L và anh Lang Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; Về án phí: chị Trương Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn: bị đơn hiện cư trú tại bản Kẻ S, xã Mậu Đ, huyện Con Cuông, tỉnh nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lang Văn V đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chưa thành niên khi ly hôn nên theo quy định, Tòa án xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp tại UBND xã Mậu Đ, huyện Con Cuông là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét chị Trương Thị L và anh Lang Văn V đăng ký kết hôn vào ngày 25 tháng 6 năm 2018 tại UBND xã Châu Q, huyện Quỳ H, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy hôn nhân giữ chị L và anh V là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc cho đến tháng 8/2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị L Nguyên nhân là do quan điểm, tính cách không phù hợp, anh V thường xuyên ghen tuông vô cớ, không tin tưởng chị. Vì vậy mà hiện nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chị L và anh V đã vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng, không sống chung với nhau mà không có lý do chính đáng.

Tại phiên tòa anh V vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy giữa vợ chồng chị L và anh V thường xuyên xẩy ra mâu thuân. Vì vậy mà hai vợ chồng đã không còn sống chung với nhau nữa.

Xét thấy, giữa chị L và anh V mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì thế cần cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, xử cho chị Trương Thị L được ly hôn với anh Lang Văn V.

Về con chung: Chị L và anh V có một con chung tên là Lang Gia B, sinh ngày 09/6/2019. Quá trình giải quyết vụ kiện chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh V cấp dưỡng tiền nuôi con. Xét thấy khi cha, mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về vật chất và tinh thần. Như vậy nguyện vọng của chị L là chính đáng, thể hiện tinh thần và trách nhiệm của người mẹ dành cho con, hơn nữa cháu B còn nhỏ dưới 36 tháng tuồi, hai bên không có thoả thuận khác về việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận giao con chung Lang Gia B cho chị L trược tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu B trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Lang Văn V do chị Trương Thị L không yêu cầu.

Về tài sản chung: Do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Trương Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trương Thị L được ly hôn anh Lang Văn V.

- Về con chung: Giao con chung Lang Gia B, sinh ngày 09/6/2019 cho chị Trương Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu B tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Lang Văn V do chị Trương Thị L không yêu cầu.

Anh V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh V lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Chị L cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Trương Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002379 ngày 23 tháng 3 năm 2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 82/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:82/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về