TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN TỊNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 80/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 22/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2022, Thông báo thay đổi ngày xét xử số: 01/TB-TA ngày 01 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Võ Thị Ngọc A, sinh năm 1999, có mặt. Địa chỉ: Đội 11, thôn T, xã T1, huyện S, tỉnh Q,
Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh S1, sinh năm 1990, vắng mặt. Địa chỉ: Đội 5, thôn L, xã T2, huyện S, tỉnh Q.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/02/2022, tại các văn bản tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị Võ Thị Ngọc A trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh S1 trước khi kết hôn có tự nguyện tìm hiểu trước, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T2 ngày 27/12/2018, trong quá trình chung sống vợ chồng không có được hạnh phúc trọn vẹn mà phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng sống không hợp nhau, thường cãi vã nhau, không có tình cảm yêu thương nhau, không tôn trọng nhau, đã vậy nhiều lần anh S1 còn có hành vi bạo lực đối với chị, vì vậy năm 2021 chị có nộp đơn khởi kiện đến Tòa án để giải quyết ly hôn, tuy nhiên được Tòa án động viên, khuyên bảo, giải thích nên chị rút đơn về nhằm tha thứ cho anh S1 để xây dựng gia đình hạnh phúc, nhưng từ khi rút đơn về anh S1 vẫn không thay đổi, không thể hòa hợp và không có tình cảm nào giành cho nhau để có được một gia đình hạnh phúc, từ tháng 11/2021, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị A không còn tình cảm với anh S1, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Thanh S1.
Về con chung: Vợ chồng có 02 đứa con chung, tên Nguyễn Võ Nhật T3, sinh ngày 29/4/2019 và Nguyễn Võ Hạ T4, sinh ngày 28/02/2021, hiện các cháu đang do anh S1 nuôi dưỡng, khi ly hôn chị đồng ý giao các con cho anh S1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng; chị không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Về nợ chung: Không có.
Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh S1 vắng mặt tại phiên tòa, không có bản trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã giao Thông báo thụ lý vụ án cho anh Nguyễn Thanh S1 nhận, nhưng anh S1 không viết bản tự khai. Tòa án đã Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tiến hành giao hợp lệ cho anh S1 theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, nhưng anh S1 không chấp hành, nên không tiến hành hòa giải được. Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, phiên tòa được mở vào ngày 14/7/2022, đã giao giấy triệu tập hợp lệ cho anh S1, anh S1 vắng mặt không có lý do, nên căn cứ khoản 1 Điều 227, 233, 235 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử Quyết định hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở phiên tòa vào ngày 02/8/2022 và Thông báo thay đổi ngày xét xử, đã giao giấy triệu tập cho anh S1 theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa lần thứ hai vào ngày 16/8/2022 anh S1 vẫn vắng mặt không lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Thanh S1.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị A và anh S1 kết hôn trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T2 ngày 27/12/2018. Chị A và anh S1 là vợ chồng hợp pháp.
Xét thấy: Trong quá trình chung sống chị A, anh S1 không hợp tính nhau, thường cãi vã nhau, không có tình cảm yêu thương nhau, không tôn trọng nhau, anh S1 có hành vi bạo lực đối với chị A, năm 2021 chị A có nộp đơn khởi kiện đến Tòa án để giải quyết ly hôn, tuy nhiên được Tòa án động viên, khuyên bảo, giải thích nên chị rút đơn về nhằm tha thứ cho anh S1 để xây dựng gia đình hạnh phúc, nhưng từ khi rút đơn về, anh S1 vẫn không thay đổi, không thể hòa hợp và không có tình cảm nào giành cho nhau để có được một gia đình hạnh phúc, từ tháng 11/2021, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, phần ai nấy sống, không còn quan tâm tới nhau. Như vậy, mâu thuẫn giữa anh S1 và chị A đã đến mức lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A. Cho chị Võ Thị Ngọc A ly hôn với anh Nguyễn Thanh S1 là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Chị A và anh S1 có 02 người con chung tên Nguyễn Võ Nhật T3, sinh ngày 29/4/2019 và Nguyễn Võ Hạ T4, sinh ngày 28/02/2021, hiện các cháu đang do anh S1 nuôi dưỡng, khi ly hôn chị A đồng ý giao các cháu T3 và T4 cho anh S1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng; chị A không phải cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy: Hiện nay, hai cháu Nguyễn Võ Nhật T3 và Nguyễn Võ Hạ T4, đang do anh S1 nuôi dưỡng, và có cuộc sống ổn địnhh, vì vậy chấp nhận yêu cầu của chị A: Giao cháu Nguyễn Võ Nhật T3 và cháu Nguyễn Võ Hạ T4 cho anh S1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị A không phải cấp dưỡng nuôi con.
[2.3] Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về nợ: Vợ chồng không nợ ai, không ai nợ vợ chồng. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.5] Án phí: Đương sự phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[2.6] Kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; 35; 147; 235; 266; 271 Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điều 51; 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Ngọc A. Chị Võ Thị Ngọc A được ly hôn với anh Nguyễn Thanh S1.
+ Về con chung: Giao các cháu Nguyễn Võ Nhật T3, sinh ngày 29/4/2019 và cháu Nguyễn Võ Hạ T4, sinh ngày 28/02/2021 cho anh S1 tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Chị A không phải cấp dưỡng nuôi con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ: Không có.
+ Án phí: Chị Võ Thị Ngọc A phải chịu 300.000,đồng án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp là 300.000,đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0001240 ngày 15/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Tịnh. Chị A đã nộp đủ án phí.
+ Kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 80/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 80/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Tịnh - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về