Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 74/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 74/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 241/2022/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2022/QĐXX - ST ngày 04 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Lê Thị N - Sinh năm 1989 “ Có mặt” Bị đơn: Anh Trần Văn T - Sinh năm 1985 “ Vắng mặt” Cùng địa chỉ: Phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do UBND phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp vào ngày 11/12/2009. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay chị N xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn T.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Trần Thị Linh Đ, sinh ngày 09/3/2011 và cháu Trần Linh C, sinh ngày 06/8/2013. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu, chị N không yêu cầu anh Tùng cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản công nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai do bị đơn gửi qua đường bưu điện, cũng như tại đơn xin xử vắng mặt( có xác nhận của Văn phòng công chứng Chí Linh), anh T trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay chị Nhung có đơn xin ly hôn, anh T đồng ý ly hôn.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Trần Thị Linh Đ, sinh ngày 09/3/2011 và cháu Trần Linh C, sinh ngày 06/8/2013. Hiện tại do chị N đang trực tiếp nuôi con, nên anh T đồng ý giao hai con cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh T sẽ cấp dưỡng nuôi con theo thỏa thuận riêng giữa anh và chị N.

Về tài sản công nợ chung: Anh Tùng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình chị N và anh T sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, và nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm được, chỉ biết là hiện nay anh chị đã sống ly thân. Nay chị N có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Anh chị có hai con chung, nếu anh chị ly hôn, việc giao con cho ai nuôi dưỡng và cấp dưỡng như thế nào đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Địa phương không nắm được anh chị có tài sản và công nợ gì nên không cung cấp cho Tòa án được.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án giải quyết: Xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, anh Tùng có đơn xin xử vắng mặt với lý do anh làm nghề lái xe thường đi vào các tỉnh phía Nam nên không thể tham gia phiên tòa được. Chị N đề nghị Tòa án tiến hành xét xử theo quy định. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh Tùng là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị N và anh Trần Văn T kết hôn với nhau cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, chị Nhung và anh Tùng đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh chị đồng ý ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa chị N và anh T đã đến mức trầm trọng, anh chị đều đồng ý ly hôn, nhưng vì lý do anh T và chị N đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vì anh T thường xuyên vắng nhà do lái xe tại các tỉnh phía Nam, nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải để ban hành Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự được. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho chị N được ly hôn chị T là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Trần Thị Linh Đ, sinh ngày 09/3/2011 và cháu Trần Linh C, sinh ngày 06/8/2013. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu, chị Nhung không yêu cầu anh Tùng cấp dưỡng nuôi con. Anh T cũng đồng ý giao hai con cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét yêu cầu của chị N thống nhất với ý kiến của anh T, mặt khác chị Nhung đang trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu, bản thân hai cháu Linh Đ và Linh C đều có nguyện vọng được ở với mẹ, do đó để đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho con chưa thành niên, cần giao hai cháu cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con trên cơ sở tự nguyện nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, Chị Nhung phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị N được ly hôn anh Trần Văn T.

Về con: Công nhận cháu Trần Thị Linh Đ, sinh ngày 09/3/2011 và cháu Trần Linh C, sinh ngày 06/8/2013 là con chung của chị N và anh T. Giao cháu Trần Thị Linh Đ và cháu Trần Linh C cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng; Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Văn T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Lê Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001812 ngày 14/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị N đã nộp đủ án phí).

Chị Lê Thị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Trần Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

638
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 74/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:74/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về