Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 65/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 65/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/10/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 03 tháng 10 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nmở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 128/2022/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2022, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2022/QĐ-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Chị Trần Thị Phúc H, sinh năm 1983 Địa chỉ: Số 48 Ng, phường Gi, TP. H tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1982 Địa chỉ:Thôn Đồng Đ, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Hiện anh H đang chấp hành án tại: Trại giam Ninh Khánh; Địa chỉ: Xã V, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 5 năm 2022 và bản tự khai, nguyên đơnChị Trần Thị Phúc H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và Anh Nguyễn Văn H kết hôn năm 2019 có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống tại Thôn Đồng Đ, xã L. Tuy nhiên hai vợ chồng chỉ hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau về mọi mặt. Nguyên nhân chính là do anh H chơi bời dẫn đến nghiện ma túy, hiện nay anh H đang phải đi chấp hành án vì phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện nay chị đã cùng con nhỏ về quê chị tại Thành phố Huế sinh sống. Nay chị xét thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh H, vì vậy chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ngiải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị xác định chị và anh H có 01 con chung là cháu Nguyễn Trần Quỳnh H sinh ngày 29/9/2019, hiện cháu đang ở với chị. Nguyện vọng của chị xin tiếp tục nuôi cháu và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của bị đơn Anh Nguyễn Văn H thể hiện tại bản tự khai ngày 09/9/2022: Anh xác định thời điểm kết hôn và sinh sống như chị H  trình bày là đúng. Theo anh nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do không hợp nhau. Nay chị H xin ly hôn thì anh cũng nhất trí.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Anh xác định anh và chị H có 01 con chung là cháu Nguyễn Trần Quỳnh H sinh ngày 29/9/2019. Do điều kiện anh đang phải đi chấp hành án nên anh đồng ý cho chị H tiếp tục nuôi cháu.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, anh H không thể đến để tham gia các phiên họp và hòa giải, vì vậy vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm như bản tự khai.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

-Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Toà án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật TTDS năm 2015. Việc thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật.

- Việc xác định quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện, Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo về hình thức, nội dung.

- Thời hạn gửi hồ sơ, văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát: Đảm bảo quy định của pháp luật, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc giao nộp tài liệu chứng cứ: Thực hiện đúng các quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tài liệu là bản sao đều có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng các quy định tại Điều 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Đề nghị HĐXX: Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện củaChị Trần Thị Phúc H. Xử ly hôn giữaChị Trần Thị Phúc H và Anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Trần Quỳnh H sinh ngày 29/9/2019 cho chị H tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H iền.

3. Về án phí ly hôn:Chị Trần Thị Phúc H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có nơi cư trú tại xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữaChị Trần Thị Phúc H với Anh Nguyễn Văn H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống được với nhau thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm, không hợp nhau về mọi mặt, nguyên nhân chính là do anh H sa ngã vào tệ nạn xã hội phải đi chấp hành án. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H với chị H là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2].Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: chị H và anh H có 01 con chung là cháu Nguyễn Trần Quỳnh H sinh ngày 29/9/2019, hiện cháu đang ở với chị H iền. Hai bên thống nhất được sau khi ly hôn chị H được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu. Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện cháu Hương còn nhỏ, anh H lại đang chấp hành án tại trại giam vì vậy không đảm bảo các điều kiện để trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Sự thống nhất của các đương sự là tự nguyện, phù hợp với đạo đức và quy định của pháp luật, vì vậy cần chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không có yêu cầu, mặt khác anh H đang chấp hành án cũng không thể có khả năng để cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H iền, vì vậy không đặt ra việc xem xét giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra việc giải quyết.

[2.4]. Về án phí ly hôn sơ thẩm:Chị Trần Thị Phúc H phải chịu theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Các điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng: - Các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện củaChị Trần Thị Phúc H. Xử ly hôn giữaChị Trần Thị Phúc H và Anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Trần Quỳnh H sinh ngày 29/9/2019, hiện cháu đang ở với chị H iền, cho chị H tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác.

anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H iền.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm:Chị Trần Thị Phúc H phải chịu theo quy định của pháp luật là 300.000 đồng. Được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0003483 ngày 27/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 65/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về